Thứ Năm, 25 tháng 8, 2016

TN22 - Thái độ về «cái tôi» khiến ta nên thánh thiện hay tội lỗi



  CHIA SẺ TIN MỪNG


Chúa Nhật thứ 22 Thường Niên

(28-8-2016)



Thái độ về «cái tôi»
khiến ta nên thánh thiện hay tội lỗi

ĐỌC LỜI CHÚA

·  Hc 3,19-21.30-31:(18) Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa. (20) Vì quyền năng Đức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường.

·  Dt 12,18-19.22-24a:(23) Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện. (24) Anh em đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giêsu.


·  TIN MỪNG: Lc 14,1.7-14

«Hãy ngồi chỗ cuối»

 (1) Một ngày sabát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người. (7) Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: (8)«Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, (9) và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này”. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. (10) Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho”. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. (11) Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên».

«Khi đãi khách, hãy mời những người nghèo khó»

 (12)Rồi Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: «Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. (13)Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. (14) Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại».

CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:

1.   Bạn nghĩ gì về «cái tôi» của bạn? Nó tốt hay xấu, thuận lợi hay bất lợi cho việc nên thánh của bạn?

2.   Người thánh thiện có còn «cái tôi» của mình không? «Cái tôi» của người thánh thiện khác với «cái tôi» của kẻ tội lỗi ở điểm nào?

3.   Bạn nghĩ gì về một người chọn chỗ kém nhất trong bàn tiệc rồi ngồi mong người ta mời lên chỗ cao hơn? Đó có phải là kẻ khiêm nhường không?

4.   Trong việc kết hiệp với Thiên Chúa và sống hòa hợp với tha nhân, «cái tôi» giúp ta hay cản trở ta? Giúp hay cản trở thế nào?

Suy tư gợi ý:

1.   «Cái tôi» hay ngôi vị của mỗi người là hồng ân cao quý nhất mà Thiên Chúa ban cho con người

Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa có ngôi vị hay bản vị (persona), nghĩa là một Thiên Chúa có «cái tôi». Con người được Ngài dựng nên theo hình ảnh của Ngài, nên mỗi người cũng có một «cái tôi». Vì thế, «cái tôi» là một giá trị căn bản và thâm sâu nhất của một con người. Không có bản vị hay «cái tôi» thì chúng ta chỉ hiện hữu giống như đất đá, cỏ cây, là những thứ không có bản vị. Do đó, chúng ta phải tạ ơn Thiên Chúa vì đã ban cho chúng ta một hồng ân rất cao quý là có «cái tôi» như Ngài đã có. Phải nói rằng không có hồng ân nào cao quý cho bằng hồng ân ấy.

2.   Thái độ về «cái tôi» quyết định sự thánh thiện hay tội lỗi

Tuy nhiên, «cái tôi» vô cùng cao quý ấy lại gây ra những vấn đề vô cùng rắc rối. Cũng «cái tôi» ấy có thể làm cho con người trở thành thánh thiện mà cũng có thể trở thành tội lỗi.

– Thánh thiện là khi «cái tôi» ấy biết tự xóa mình đi trước «cái tôi» của Thiên Chúa và của tha nhân. Chính Thiên Chúa, nguồn mạnh mọi sự thánh thiện, luôn luôn tự xóa mình; chúng ta có thể thấy điều này qua hành động tự xóa mình của Ngôi Hai trước Hai Ngôi kia: «Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự» (Pl 2,6-8).

– Tội lỗi là khi ta đặt «cái tôi» của ta lên trên «cái tôi» của Thiên Chúa và của tha nhân. Tội lỗi của thiên thần Lucifer và ông bà nguyên tổ của con người nằm ở chỗ đã đặt «cái tôi» của mình lên trên «cái tôi» của Thiên Chúa.

Vì thế, «cái tôi» là một con dao hai lưỡi. Chính thái độ của «cái tôi» của ta đối với «cái tôi» của Thiên Chúa và của tha nhân khiến ta trở nên thánh thiện hay tội lỗi.

3. Nghịch lý của «cái tôi»

Theo niềm tin Kitô hữu, Thiên Chúa đã dựng nên linh hồn con người – yếu tố chủ yếu làm nên «cái tôi» của ta – mang tính bất tử hay vĩnh cửu. Vì thế, dù «cái tôi» ấy có tự xóa mình đến thế nào thì nó cũng vẫn tồn tại. Điều rất nghịch lý nhưng cũng rất hữu lý là «cái tôi» càng tự xóa mình hay tự làm nhỏ mình đi bao nhiêu, thì nó càng trở nên vĩ đại, nổi bật và có giá trị hơn trước mặt Thiên Chúa và tha nhân. Trái lại, «cái tôi» càng muốn phình to và nổi bật lên để lấn át những «cái tôi» khác thì nó càng trở nên nhỏ bé, lu mờ và kém giá trị trước mặt Thiên Chúa và tha nhân. Đúng như lời Đức Giêsu trong bài Tin Mừng: «phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên».

Hai lời khuyên của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng ứng dụng cái nghịch lý trên. Trong bữa tiệc, hay trong rất nhiều tình huống khác của cuộc đời, ta nên chọn chỗ hèn kém hơn tha nhân. Chọn chỗ hèn kém không phải để sau đó mong chờ người ta đưa mình lên. Nếu còn ý hướng mong chờ đó thì việc chọn chỗ hèn kém ấy chỉ là giả hình, giả khiêm nhượng, không phải là xóa mình thật sự. Chọn chỗ hèn kém như một thái độ tự xóa mình thật sự – nghĩa là vì không muốn ai để ý đến mình, không làm theo khuynh hướng tự nhiên của «cái tôi» là muốn được trọng vọng, đề cao – thì mới thật sự là khiêm nhường. Khiêm nhường thật sự như thế mới có giá trị cao cả trước mặt Thiên Chúa.

Khi làm ơn cho ai, nếu còn mong người ta nhớ ơn hay trả ơn mình – khiến ta chỉ muốn làm ơn cho những ai mà ta hy vọng họ sẽ trả ơn ta – thì ta vẫn còn đặt nặng «cái tôi» của mình. Người thánh thiện hay trọn hảo, khi làm ơn cho ai, không mong được họ đáp trả, nên sẵn sàng làm ơn cho cả những người không thể trả ơn được, và họ ưu tiên làm ơn cho những đối tượng này. Làm được việc gì, dù to tát đến đâu cũng không cậy công, không tự hào rằng mình đã làm được như thế. Đức Giêsu dạy: «Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi» (Lc 17,10). Có như thế mới thật sự là xả kỷ, quên mình. Nhưng chính khi quên mình thật sự như thế, ta mới thật sự gặp lại chính mình: «Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân» (Kinh Hòa Bình của thánh Phanxicô Khó Khăn). Người biết xóa mình hay quên mình thì thường xuyên sống trong bình an và hạnh phúc.

4.   Quan trọng hóa «cái tôi» là một trở ngại rất lớn cho việc sống kết hiệp với Thiên Chúa và hòa hợp với tha nhân

Trong đời sống Kitô hữu, điều quan trọng nhất phải thực hiện là mến Chúa và yêu người, hay nói cách khác là sống kết hiệp với Thiên Chúa và hòa hợp với tha nhân. Trong việc kết hiệp với Thiên Chúa, dụ ngôn sau đây trong Ấn Độ giáo có một ý nghĩa sâu sắc:

«Xưa có một linh hồn tu nhiều kiếp đến gõ cửa Thiên Đàng. Thượng Đế hỏi:
– Ai đó?
– Con, linh hồn trả lời.
– Con là ai? Thượng Đế hỏi lại.
– Con là con, linh hồn đáp.
– Ở đây không đủ chỗ cho Ta và con cùng ở, con hãy đi nơi khác! Thượng Đế nói.

Linh hồn ấy trở lại trần gian tu luyện thêm 1000 năm nữa, sau đó lên Trời gõ cửa lại. Thượng Đế hỏi:
– Ai đó?
– Con, linh hồn trả lời.
– Con là ai? Thượng Đế hỏi lại.
– Con là Ngài, linh hồn đáp.

Khi ấy, Thượng Đế mở cửa Thiên Đàng cho linh hồn ấy vào».

Dụ ngôn trên cho thấy muốn kết hiệp với Thiên Chúa, con người phải xóa mình đi, nghĩa là phải biết coi nhẹ «cái tôi» của mình, coi nó như không là gì cả. Lúc ấy, «cái tôi» của ta như bị mất cái vỏ bên ngoài chỉ còn cái lõi bên trong là chính Thiên Chúa, nên rất dễ kết hợp với Ngài. Vì Thiên Chúa chính là nền tảng, là cốt tủy cho sự hiện hữu và tồn tại của «cái tôi» mỗi người. Đúng như thánh Âu Tinh nói: «Thiên Chúa còn thân mật với tôi hơn chính nội tâm tôi» (Deus intimior intimo meo). Chỉ khi kết hiệp với Thiên Chúa trong tình trạng tự xóa mình như thế, sự kết hiệp mới trọn vẹn và đem lại hạnh phúc tuyệt vời.

Đối với tha nhân, ta chỉ có thể yêu thương và hòa hợp với tha nhân khi ta tự xóa mình. Đối với ta, «cái tôi (của ta) là cái đáng yêu» nhất, nhưng đối với tha nhân, «cái tôi (của ta) là cái đáng ghét» nhất. Vì thế, tự đề cao mình, tự làm cho mình nổi bật lên, tự quan trọng hóa mình… trước tha nhân chỉ làm cho «cái tôi» của mình thêm đáng ghét, khiến ta và tha nhân tự nhiên xa cách nhau. Khi tự xóa mình trước tha nhân, coi tha nhân là quan trọng, làm cho tha nhân được nổi bật lên, thì đối với tha nhân, «cái tôi» của ta sẽ trở nên đáng yêu, khiến ta và họ trở nên gần gũi, dễ hòa hợp với nhau. Nhờ đó việc sống chung, làm việc chung trở nên vui thú và hạnh phúc.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, Cha đã dựng nên con có một ngôi vị hay một «cái tôi» giống như Cha. Chính nhờ «cái tôi» này mà con có thể trở nên thánh thiện như Cha, mà cũng có thể tội lỗi như ma quỉ. Vấn đề là con đã hành xử với «cái tôi» của con thế nào: con coi nó quan trọng hơn Cha, hơn tha nhân, là trung tâm của vũ trụ, hay coi nó chỉ một «cái tôi» nhỏ bé cần đặt dưới tất cả những «cái tôi» khác!?  Tội lỗi hay thánh thiện nằm ở thái độ này. Xin cho con biết coi nhẹ «cái tôi» của mình trước Cha và tha nhân.

(Nguyễn Chính Kết)
Share:

TN22 - Tâm lý của "cái tôi"


 

CHIA SẺ TIN MỪNG
 
Chúa Nhật thứ 22 Thường Niên
(28-8-2016)

Tâm lý của "cái tôi"


Đọc Lời Chúa

·      Hc 3,17-18.20.28-29: (18) Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa. (20) Vì quyền năng Đức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường. (28) Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó.

·      Dt 12,18-19.22-24a: Anh em đã tới dự hội vui, (23) dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời. Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện.
·      TIN MỪNG: Lc 14,1.7-14

«Hãy ngồi chỗ cuối»

(1) Một ngày sa-bát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người. (7) Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: (8) «Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, (9) và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này”. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. (10) Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho”. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. (11) Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên».
 
«Khi đãi khách, hãy mời những người nghèo khó»

(12) Rồi Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: «Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. (13) Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. (14) Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại».

Câu hỏi gợi ý:

1.   Có bao giờ bạn làm ra vẻ yêu thương ai, giả bộ khiêm nhường, tỏ ra mình là người có giá trị, có tư cách không?           
      Bạn nghĩ gì về sự giả bộ này? Nó có phổ biến nơi tâm lý mọi người không?

2.   Khi người khác thành công hơn bạn, được ca tụng hơn bạn, bạn có tự nhiên cảm thấy có gì đó làm mình khó chịu, ganh tức, buồn phiền không?

3.   Hành động theo khuynh hướng giả trá ấy có lợi ích lâu dài không? có phải là khôn ngoan không? Tại sao?

Suy niệm

1. Ai cũng muốn bản thân mình là một cái gì có giá trị,
và được mọi người công nhận và tôn trọng giá trị của mình

Thiên Chúa đã dựng nên con người giống như Ngài, theo hình ảnh Ngài (xem St 1,26-27; 9,6), nhưng ở mức độ hoàn hảo của một tạo vật giới hạn, đương nhiên kém Ngài rất xa vì Ngài ở mức độ hoàn hảo của một Thiên Chúa vô hạn. Mức hoàn hảo của con người về sau lại bị tổn thương vì tội nguyên tổ. Vì thế, từ sâu thẳm, con người vẫn muốn vươn lên hoàn hảo, muốn sống yêu thương, muốn thực hiện Chân Thiện Mỹ, nghĩa là muốn càng ngày càng trở nên giá trị hơn, giống Thiên Chúa hơn. Đấy quả là một chiều hướng rất tốt.

Nhưng do tội lỗi và nhất là tính kiêu ngạo, sự xấu đã xâm nhập vào bản thể con người, khiến cho chiều hướng tốt ấy bị lạc hướng. Thay vì cố gắng trở nên hoàn hảo, có giá trị thật sự (điều này khó, đòi hỏi con người phải cố gắng nhiều và quên mình đi), thì con người lại muốn trở nên có vẻ hay được coi như hoàn hảo, như yêu thương, như có giá trị, như giống Thiên Chúa. Điều này giảm bớt cho con người biết bao khó khăn và nỗ lực. Thay vì tìm cách tạo nên giá trị thật sự từ bên trong, con người tìm cách để mình có vẻ như,hay được coi như, và được đối xử như có giá trị, bất chấp bên trong có giá trị đích thực hay không.

Vì thế, khi xét mình, nếu thành thật với lòng mình, ai cũng đều cảm nhận khuynh hướng này: «Tôi biết anh nịnh tôi, nhưng tôi vẫn thấy thích thú», và nếu ai nói về một tật xấu hay điều dở của ta, cho dù có đúng 100%, ta cũng cảm thấy khó chịu. Từ đó, thay vì nỗ lực hoàn thiện «cái tôi», làm cho nó có giá trị đích thực, thì ta lại tìm đủ mọi cách để «cái tôi» được tôn trọng, được coi là có giá trị. Chẳng hạn, khi dự tiệc thì thích lên ngồi ở chỗ danh dự, chỗ dành cho những bậc vị vọng, trong giáo xứ hay trong xã hội thì tìm cách vận động để ngoi lên những chức vụ quan trọng… Ngoài ra còn tìm đủ mọi cách để che bớt những cái xấu, cái dở của mình, để đừng có ai nhìn thấy. Khuynh hướng giả trá này còn đi xa hơn: bên trong càng ít giá trị, thì bên ngoài lại càng phải tỏ ra nhiều giá trị. Vì thế nên mới có tình trạng «xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ», «thùng rỗng kêu to», càng tự ty thì lại càng tự tôn. Thậm chí sẵn sàng đánh lừa cả chính mình: nghĩ mình đích thực có giá trị đúng như mình đang muốn làm ra vẻ như thế.

2.  Phải vạch mặt khuynh hướng giả trá ấy ngay trong bản thân mình

Chính khuynh hướng này, xem ra rất tự nhiên nơi mỗi người và mọi người, lại là đầu mối gây nên biết bao nhiêu tội lỗi, xấu xa và rắc rối cuộc đời. Tại sao? Vì nó chính là một khuynh hướng giả trá, ma mãnh, nên kết quả cuối cùng bao giờ cũng là thất bại thê thảm, mặc dù nhất thời nó có thể đem lại nhiều vinh quang, lợi lộc. Ta dễ ganh tị khi thấy người khác hơn mình (tốt hơn, đẹp hơn, hạnh phúc hơn, đạo đức hơn, tài năng hơn, giàu có hơn, được yêu mến hơn…). Sự ganh tị ấy khiến ta vô tình hoặc cố ý tìm cách hạ người khác xuống bằng lời nói hoặc bằng hành động, thậm chí làm hại hoặc trừ khử họ. Nhưng rồi tới một lúc nào đó, chẳng sớm thì muộn, sự ganh tị ấy cũng sẽ bị lột mặt nạ, để rồi tất cả những gì giả tạo mình vất vả xây dựng được, có thể bằng tội ác, bằng những phương tiện bất chính, sẽ sụp đổ hoàn toàn. Lúc đó trước mặt người khác, mình lại trở thành kẻ vô giá trị, hơn thế nữa, bị nguyền rủa thậm tệ.

Khuynh hướng giả trá này, bao hàm sự ganh tị, là mẫu số chung tự nhiên của tất cả mọi con cháu Ađam–Eva, cho dù người ấy thánh thiện tới đâu. Sự thánh thiện của một con người không phải nằm ở chỗ không có hay tiêu diệt khuynh hướng ấy, mà thắng vượt được khuynh hướng ấy. Thật vậy, cho dù tôi có thánh thiện tới đâu, khi có ai nịnh tôi, hay khi tôi được đề cao (dù không xứng đáng) thì phản ứng tâm lý đầu tiên của tôi là cảm thấy thích thú, và khi có ai chê bai (dù là chê đúng), hay khi thấy bạn bè hơn mình, tôi vẫn thấy khó chịu. Nếu không thế thì chắc hẳn tôi đã thoát khỏi hậu quả xấu ác của tội nguyên tổ rồi! Phản ứng đầu tiên hay «sơ cấp» phát xuất từ tâm lý ấy, dù tôi không muốn phản ứng như thế cũng không được, trừ trường hợp tôi đã tu luyện rất nhiều năm. Và phản ứng tuy xuất phát từ một khuynh hướng xấu, nhưng không phải là tội lỗi, vì nó xảy ra ngoài ý muốn của tôi. Nhưng sau đó, tôi bắt đầu phản tỉnh lại và nhận ra đó là một khuynh hướng xấu. Vấn đề là sau khi phản tỉnh, tôi có hành động theo khuynh hướng xấu đó hay không. Phản ứng sau này hay «thứ cấp» có sự can dự của ý chí, nghĩa là ta có thể hành động theo hoặc không theo khuynh hướng đó tùy quyết định của ta. Thánh thiện hay tội lỗi là tùy thuộc phản ứng thứ cấp này. Như vậy, người thánh thiện hay tội lỗi đều giống nhau ở phản ứng sơ cấp, nhưng khác hẳn nhau ở phản ứng thứ cấp.

3.  Nhận định hậu quả cuối cùng rất tai hại của khuynh hướng giả trá ấy để dứt khoát không chiều theo

Hành động theo khuynh hướng giả trá này có thể đem lại một số lợi lộc nhất thời, chóng qua, nhưng kết quả cuối cùng và lâu dài thì rất tai hại. Chúng ta rất dễ bị hấp dẫn, lôi cuốn vì những lợi lộc nhất thời ấy, nhất là khi chúng ta không nghĩ tới hậu quả cuối cùng rất tai hại và kéo rất dài của nó. Chẳng hạn, trường hợp một người không xứng đáng ngồi vào chỗ danh dự trong bàn tiệc, nhưng lại chiều theo khuynh hướng «muốn có vẻ là có giá trị», hay «muốn được coi là danh giá» nên ngồi vào đó. Khi ngồi đấy, anh ta cảm thấy hạnh phúc khi nghĩ đến những cặp mắt đang nhìn anh ta với sự nể phục. Nhưng hạnh phúc đó không thể kéo dài được nếu nó không có nền tảng là sự xứng đáng. Chỉ trong chốc lát, khi có nhiều bậc vị vọng tới dự tiệc, họ xứng đáng ngồi ở chỗ đó hơn, thì chủ nhà nhận ra ngay sự không xứng đáng của anh ta. Thế là anh ta bị mời xuống. Niềm hãnh diện và hạnh phúc chỉ kéo dài được dăm ba phút khi bữa tiệc mới bắt đầu, nhưng sự nhục nhã và đau khổ thì kéo dài suốt cả bữa tiệc, thậm chí nhiều ngày tháng sau bữa tiệc nữa.

Ngược lại, nếu ta không màng gì tới những cái có vẻ bên ngoài ấy, thì cuối cùng ta cũng chẳng mất chúng. Vì cuối cùng chúng sẽ trở lại với người xứng đáng với chúng. Chẳng hạn, trong bữa tiệc, nếu ta là người xứng đáng ngồi ở chỗ danh dự, nhưng vì nghĩ mình không xứng đáng nên ta lại chọn một chỗ hèn kém, thì khi chủ tiệc nhận ra sự có mặt của ta ở chỗ hèn kém ấy, ông ta sẽ mời ta lên chỗ cao hơn. Như thế, ta chẳng những không bị mất danh dự xứng đáng với ta, mà người khác còn thấy được phong cách cao thượng của ta nữa.

Tuy nhiên, điều quan trọng ta cần phải đạt được là sự khiêm nhường đích thực bên trong, chứ không phải là sự khiêm nhường giả bộ bên ngoài. Khuynh hướng giả trá nói trên cũng có thể thúc đẩy chúng ta làm ra vẻ khiêm nhường. Chẳng hạn, trong bữa tiệc, ta cố ý chọn một chỗ kém hơn địa vị của ta với mục đích được được nâng lên. Nhưng nếu người chủ vô ý không mời ta lên bàn trên, thì ta trở nên bực bội trong lòng… Người khiêm nhường đích thực không tự coi mình là gì cả, nên không cảm thấy bực bội khi bị xúc phạm, cũng không cảm thấy có gì đáng phải lên mặt vinh vang khi được ca ngợi tôn vinh. Chỉ có những người khiêm nhường đích thực ấy mới luôn luôn cảm thấy mình hạnh phúc, thanh thản, nhẹ nhàng, và được Thiên Chúa yêu quí.

Cầu nguyện

Lạy Cha, xin giúp con thắng được khuynh hướng giả trá muốn làm ra vẻ có giá trị hơn giá trị đích thực của con. Xin giúp con thành thật với chính mình, và với mọi người, đừng để con ham được đánh giá cao hơn bản chất thực của con. Xin giúp con đừng coi mình là gì cả, đừng quan trọng hóa mình, để con trở nên một con người chân thực, một phản ảnh trung thực của Cha ở trong con. Amen.

(Nguyễn Chính Kết)

Share:

Thứ Sáu, 19 tháng 8, 2016

TN21 - Nên thánh bằng cửa hẹp


CHIA SẺ TIN MỪNG


Chúa Nhật thứ 33 Thường Niên

(21-8-2016)

Nên thánh bằng cửa hẹp


ĐỌC LỜI CHÚA

·     Is 66,18-21: (18) Ta sẽ đến tập họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ; họ sẽ đến và được thấy vinh quang của Ta. (19) Ta sẽ đặt giữa họ một dấu hiệu và sai những kẻ sống sót của họ đến với các dân tộc, đến những hải đảo xa xăm chưa hề nghe nói đến Ta, chưa hề thấy vinh quang của Ta. Họ sẽ loan báo vinh quang của Ta giữa các dân tộc.

·     Dt 12,5-7.11-13: (5) Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. (6) Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. (7) Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy? (11) Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính.


·      TIN MỪNG: Lc 13,22-30

Cửa hẹp. Thiên Chúa ruồng bỏ người Do-thái bất trung
và kêu mời dân ngoại

 (22) Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. (23) Có kẻ hỏi Người: «Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” Người bảo họ: (24) «Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.

 (25) «Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: «Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!”, thì ông sẽ bảo anh em: «Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!” (26) Bấy giờ anh em mới nói: «Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi. (27) Nhưng ông sẽ đáp lại: «Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!”

 (28) «Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. (29) Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. (30)«Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.


CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:

1.    Câu Kinh Thánh «Hãy đi đường hẹp… Đừng đi đường rộng” có thể áp dụng cho «những con đường nên thánh” không? Áp dụng thế nào?

2.    Nên thánh bằng con đường rộng, và bằng con đường hẹp là gì?

Suy tư gợi ý:

1.   «Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”

Thông thường, ai cũng thích đi vào những con đường rộng rãi, cao cấp, vì tại đó có thể đi bằng những loại xe lớn, mắc tiền, tốc độ cao, có thể phóng xe thoải mái, đỡ mệt trí. Không mấy ai thích đi đường hẹp, nhỏ, vì chỉ có thể đi bằng xe nhỏ hay đi bộ, vừa mệt lại vừa chậm chạp.

Cũng vậy, để đạt tới sự thánh thiện, theo tâm lý tự nhiên, ai cũng thích đi con đường rộng, vừa làm những việc lớn lao, tiếng tăm lừng lẫy, được mọi người coi là vĩ đại, tôn là thần thánh, vừa đỡ phải hy sinh, đỡ chịu thiệt thòi, vừa có danh, lợi, quyền, nhờ đó được hưởng biết bao ưu đãi, đặc quyền đặc lợi mà thế gian dành cho… Biết bao người muốn nên thánh bằng con đường «siêu xa lộ” này. Người muốn nên thánh kiểu này chủ trương rằng phải nên thánh làm sao để được hưởng hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau. Quả là một tính toán hết sức khôn ngoan… kiểu trần gian! Chẳng mấy ai muốn nên thánh bằng con đường hẹp, nhỏ, là con đường làm những việc nhỏ bé, tầm thường, âm thầm, vừa phải hy sinh nhiều mà chẳng được ai biết đến, lại chẳng được chút ưu đãi gì của trần gian. Quả là thiệt thòi nhiều chuyện!

Nhưng Đức Giê-su dạy chúng ta, đương nhiên ngay cả trong việc nên thánh, rằng hãy đi con đường nhỏ hẹp, khiêm nhu, ít người thích đi. Điều hết sức nghịch lý nhưng lại rất chí lý là con đường nhỏ hẹp ấy đem lại nhiều kết quả cho việc nên thánh đích thực hơn là con đường rộng rãi thênh thang. Vì đặc trưng của việc nên thánh là như vậy. Muốn nên thánh mà lại muốn đi vào đường lớn, muốn làm những việc to tát để ai cũng biết tiếng, để có được những thứ mà người trần gian thường ao ước! Coi chừng kẻo mình đang làm mọi sự vì mình, vì vinh danh mình, vì lòng kiêu ngạo, để làm phình to bản ngã, chứ không phải vì vinh danh Chúa hay vì yêu mến Chúa và vì lợi ích của tha nhân. Mang tiếng là vì Chúa, cho Chúa, nhưng thực ra là vì mình tất cả! Chúa chỉ là phương tiện phục vụ cho những mục đích của mình! Chính vì thế, con đường thênh thang rộng rãi đầy «mầu mè thánh thiện” này nhiều khi lại dẫn đến đổ vỡ trước mặt Thiên Chúa. Sự đổ vỡ ấy được đề cập đến ngay trong bài Tin Mừng này.

2.   Một sự đảo ngược không ngờ

Những người muốn nên thánh kiểu «khôn ngoan” kia thường nghĩ rằng: đời này mình được thần thánh hóa, được mọi người tôn vinh, nể trọng, kính phục, ắt đời sau mình cũng là một nhân vật đáng kể ở trên trời. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho thấy vào «ngày ấy”, có một sự đảo lộn không ngờ được: «Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Lc 13,30). Đứng chót cũng còn đỡ, bài Tin Mừng còn cho thấy một viễn ảnh đen tối hơn: «Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài” (Lc 13,28). Đương nhiên sẽ có biết bao người lấy làm lạ, vì thấy mình đã làm cho Chúa biết bao nhiêu điều to tát ở trần gian. Họ hỏi Chúa: «Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi” (Lc 13,26). Hoặc «Nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” (Mt 7,22). Nhưng câu trả lời của Chúa thật như tát vào mặt họ một cách bất ngờ: «Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” (Lc 13,27). Thật ít ai hiểu được tại sao những người mà trần gian tưởng rằng đầy công nghiệp trước mặt Chúa lại bị Chúa trả lời phũ phàng và «vô ơn” đến như vậy!

3.   Muốn nên thánh, hãy chọn con đường nhỏ hẹp mà đi

Bài Tin Mừng trên quả thật đáng làm cho chúng ta ngạc nhiên và suy nghĩ, nhất là những người Ki-tô hữu đang theo lý tưởng nên thánh. Liệu sự đảo lộn ấy có áp dụng ngay trên chính bản thân ta không? Điều quan trọng là chúng ta cần xác định xem mình đang đi trên con đường loại nào để nên thánh? Đường nhỏ hay đường lớn? Đường mòn hay xa lộ? Nếu chúng ta thật sự muốn thành công trong việc nên thánh, hãy cẩn thận, đừng ham con đường rộng rãi, «vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó” (Mt 7,13). Hãy chọn con đường nhỏ hẹp, vì «cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,14). Nhưng thế nào là nên thánh bằng con đường rộng? Và thế nào là nên thánh bằng con đường hẹp?

Ta đang đi trên đường rộng, nếu ta vừa muốn nên thánh, mà lại vừa muốn và tìm cách dùng sự nên thánh ấy để hưởng được ít nhiều những thứ mà mọi người thế tục mong ước: quyền lực, tiếng tăm, địa vị, tiền bạc, được ca tụng, tôn vinh, quí trọng, được thần thánh hóa, được mọi người coi là đạo đức thánh thiện, được ưu đãi trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội bất chấp tài đức hèn mọn của mình, được ăn ngon mặc đẹp, và những thú vui trần tục khác. Những người nên thánh kiểu này có thể làm rất nhiều việc được coi là đạo đức, tốt đẹp, thậm chí dạy mọi người nên thánh nữa. Họ thường có vẻ bên ngoài rất thánh thiện, đạo mạo. Đức Giê-su nói về họ: «Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có (…) những kẻ bây giờ đang được no nê (…) những kẻ bây giờ đang được vui cười (…) được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế” (Lc 6,24-26). Các nhà tu đức thường nói về họ: «sanctus videtur sed non est” (có vẻ thánh mà thực ra không phải). Vì họ phải như thế thì mới được mọi người nghĩ họ là thánh! Đặc tính không dấu được của những người này là để lộ ra «cái tôi” rất lớn của mình! Họ khó có thể chấp nhận có ai xúc phạm đến họ. Và họ không bao giờ dám dấn thân vào những gì nguy hiểm đến sự sống còn, đến địa vị hay nồi cơm của họ, khi lý tưởng «vì Chúa vì tha nhân” và tư cách «thánh thiện” của họ đòi hỏi!

Ta đang đi trên đường hẹp, nếu ta muốn nên thánh mà không ham được ai biết đến, cũng không tìm cách dùng cái «vẻ thánh thiện” của mình để hưởng được những thứ «hấp dẫn” trần tục ấy. Đặc tính dễ nhận ra của những người này là họ coi «cái tôi” của họ rất nhỏ! Không cảm thấy có vấn đề gì lớn khi bị ai xúc phạm, hiểu lầm. Họ không thích làm ra vẻ thánh thiện, đạo mạo. Và họ cũng sẵn sàng hy sinh khi lý tưởng vì Chúa vì tha nhân đòi hỏi. Các nhà tu đức thường nói về họ: «sanctus non videtur sed est” (không có vẻ thánh nhưng lại là thánh).

4.   Hãy tự xét mình để đừng ảo tưởng về mình

Quả thật, nhiều khi chúng ta tưởng mình rất tốt lành trước mặt Thiên Chúa, chỉ vì ta đã làm được biết bao việc tốt lành, nhiều hơn biết bao người khác! Vì những việc tốt đẹp ấy, biết bao người đã nể phục, kính trọng ta, khen ta là thánh thiện, tốt lành, đạo đức. Nhưng có bao giờ ta tự hỏi: trước con mắt của Thiên Chúa, ta có được Ngài đánh giá tốt lành như người chung quanh ta đánh giá không? Ta làm được biết bao việc tốt lành, nhưng động lực gì thúc đẩy ta làm những việc ấy? Vì yêu Chúa, vì yêu thương người khác được bao nhiêu phần trăm? Hay ta làm để được tiếng khen, để tạo uy tín, để được kính nể, để nhờ đó ta được bề trên và nhiều người tín nhiệm hơn, được lên chức, được nắm nhiều quyền hơn, vì sự khôn ngoan trần gian đòi buộc như thế… động lực này là bao nhiêu phần trăm? Nếu thành thực với lòng mình, nhiều khi ta thấy mình vì Chúa, vì người khác rất ít, mà vì mình thì rất nhiều. Hãy coi chừng kẻo ta đang muốn nên thánh bằng con đường rộng rãi thênh thang, tuy được người trần gian ca tụng là thánh thiện, được thế gian tôn trọng ưu đãi, nhưng trước mặt Chúa lại là con số không to tướng! Cần luôn tỉnh thức và hồi tâm xét lại những động cơ của mình!

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, thế lực xấu ở ngay trong bản thân con thật tài tình! Nó có thể đánh lừa chính con ngay cả trong việc cao cả nhất là việc nên thánh. Nó làm con tưởng rằng mình đang tiến bộ rất nhanh trên con đường nên thánh, vì làm được biết bao việc tốt lành cho Chúa và tha nhân! Nhưng thực ra con đang xây dựng cho vinh quang của con trước mặt người đời. Con đã ăn cắp vinh quang của Cha để hưởng cho con. Xin cho con biết phản tỉnh sâu xa để nhận ra tình trạng tệ hại ấy, và trở lại với con đường nên thánh nhỏ bé mà Cha muốn con đi. Amen.
(Nguyễn Chính Kết)
Share:

Thứ Năm, 18 tháng 8, 2016

Bàn về chuyện đúng sai




Bàn về chuyện đúng sai



Chuyện đúng sai rất là tương đối. Nói chung, những người suy nghĩ theo lương tri − chứ không phải những người suy nghĩ theo một khuôn mẫu cố định − thường đi từ cái đúng thấp đến cái đúng cao hơn. Và cứ thế người ta tiếp tục đi từ cái đúng này đến cái đúng khác cao hơn suốt cả cuộc đời. Sự tiến triển trong lãnh vực khoa học kỹ thuật cũng tương tự như vậy.

Chẳng hạn, Lavoisier, nhà khoa học đã khám phá ra một định luật mang tên ông, nói về hai vế của một phương trình hóa học phải cân bằng về số lượng nguyên tử. Nhưng khi một nhà khoa học khác khám phá ra rằng trong một phản ứng hóa học, các nguyên tử có thể biến từ nguyên tử này thành nguyên tử khác, thì định luật Lavoisier chỉ còn áp dụng cho những phương trình hóa học ở cấp trung học thôi.

Tất cả những khoa toán học, vật lý, hóa học, cơ học, v.v... của thế kỷ 19 khi bước sang thế kỷ 20 và 21 đều được nâng cấp thành khoa tân toán học, tân vật lý, tân hóa học, tân cơ học, v.v... với những khái niệm mới có phần khác với những khái niệm cũ. Chính vì thế người ta mới có câu: «Khoa học là một nghĩa trang chôn các giả thuyết», vì hễ có nhà khoa học nào đưa ra một giả thuyết nào đó thì sẽ được cả thế giới công nhận là đúng suốt một khoảng thời gian nào đó. Nhưng chỉ một thời gian sau lại có một nhà khoa học khác đưa ra những giả thuyết mới hơn phủ nhận tính tổng quát hay tính toàn bộ của giả thuyết cũ. Nghĩa là giả thuyết cũ chỉ còn đúng trong một không gian giới hạn nào đó thôi chứ không đúng trong tất cả mọi trường hợp. Và cái giả thuyết mới này cũng sẽ bị một giả thuyết mới hơn nữa phủ nhận tương tự.

Để dễ hiểu hơn, xin đưa ra một ví dụ khác: Ông tiến sĩ toán khi dạy toán cho đứa con tiểu học của mình thì cũng phải nói y hệt như cô giáo dạy tiểu học: không được lấy số nhỏ trừ số lớn, vì điều đó là phi lý. Ông giải thích: Thật vậy, nếu ta chỉ có 3 cái kẹo, thì ta chỉ có thể ăn 1 cái và còn lại 2 cái, hoặc ăn 2 cái và còn lại 1 cái, hoặc nhiều nhất là ăn hết cả 3 cái thôi, chứ không thể nào ăn tới 4 cái được. Ở trình độ đó các em thấy nói như thế là hoàn toàn hợp lý. Không thể nói khác hơn được. Và nói điều ấy là hoàn toàn đúng cho các em ở trình độ tiểu học.

Nhưng khi các em lên trung học, cũng ông tiến sĩ toán ấy lại dạy các em về khái niệm số âm, lúc đó các em trung học sẽ thấy việc lấy số nhỏ trừ số lớn là hiểu được và không có gì phi lý cả. Chẳng hạn trong thẻ tín dụng, mình chỉ có $100, nhưng mình vẫn có thể dùng nó để mua một món đồ $300, để rồi mình còn −$200, nghĩa là mình nợ nhà băng $200.

Cũng tương tự như vậy đối với việc dùng căn số bậc 2 (hay các bậc chẵn khác): khi còn ở lớp 11 trở xuống, dưới căn hiệu bậc 2, bắt buộc phải là một số dương (Ѵx [x ≥ 0]), vì nếu là một số âm thì căn số đó hoàn toàn vô nghĩa. Nhưng với các em ở lớp 12 trở lên, sau khi học về số ảo, thì căn số bậc 2 của một số âm không còn là vô nghĩa nữa, mà vẫn có giá trị thực tế của nó.

Các em tiểu học mà mở sách toán của bậc trung học, các em không thể nào hiểu nổi. Cũng vậy, các em ở bậc trung học mà mở sách toán của sinh viên bậc đại học thì cũng chẳng hiểu nổi. Nhiều điều được phát biểu ở bậc trung học hay đại học, các em bậc tiểu học sẽ cho là phi lý, là sai, nhưng thật ra không phải là phi lý, cũng chẳng phải sai, mà chỉ là những điều ấy vượt khỏi tầm suy nghĩ của các em mà thôi. Ông tiến sĩ giỏi toán cách mấy cũng không thể nào giải thích được cho các em bậc tiểu học hiểu được về hàm số, đạo hàm, về tích phân, về số ảo, v.v... Nhiều người khi nghe trình bày về thuyết tương đối của Einstein thì cứ y như là «vịt nghe sấm», chẳng hiểu gì cả. Nhưng không thể vì thế mà nói rằng ông Einstein này điên hay phi lý.

Ông tiến sĩ toán khi dạy ở những trình độ khác nhau, ông buộc phải nói nhiều điều có vẻ như mâu thuẫn nhau, nhưng thật ra đều đúng cả, nhưng đúng ở những trình độ khác nhau. Tất cả những điều có vẻ mâu thuẫn và khác biệt nhau ấy thật ra đều mang tính nhất quán.

(Xin mở ngoặc một chút: Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa là không có cái sai, cũng không có nghĩa là ai nói cái gì cũng đúng. Khi nói 2 + 2 = 3, thì rõ ràng là sai trong hầu hết mọi trường hợp. Tuy nhiên, cũng có thể sẽ có một vài trường hợp đặc biệt, nó vẫn đúng, chẳng hạn trong câu: 2 cha 2 con tổng cộng là 3 người thì vẫn đúng khi nói về 3 thế hệ trong cùng một đại gia đình. Xin xem thêm chú thích 1 và 2 bên dưới)

Trong lãnh vực tâm linh cũng vậy, hiện nay cả thế giới con người đều ở một trình độ rất thấp so với các thiên thần. Và các thiên thần thì cũng ở trình độ vô cùng thấp so với Thiên Chúa. Chính vì thế trước khi đi chịu chết, Chúa Giêsu mới nói với các tông đồ: «Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi» (Ga 16,12). Vì lúc đó các ông phần nào vẫn còn là «trẻ con về mặt tâm linh» cho tới khi các ông nhận được Thánh Thần ngày lễ Ngũ Tuần.

Về vấn đề này, thánh Phaolô nói: «Khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con» (1Cr 13,11). «Bỏ tất cả những gì là trẻ con» không có nghĩa là phải bắt trẻ con không được suy nghĩ như trẻ con, vì trẻ con mà suy nghĩ như trẻ con là điều phải lẽ. Nhưng đã là người lớn mà cứ suy nghĩ như trẻ con thì... quả là có vấn đề về trí não. Trẻ con nó quý con búp bê của nó gấp trăm lần cục vàng, hay nó coi con búp bê có giá trị hơn tờ giấy bạc có thể mua được cả trăm con búp bê. Đó là điều tự nhiên chứ không hề phi lý. Nhưng người lớn mà cũng hành xử như nó thì người ấy quả là… «đứa trẻ con lớn tuổi».

Tương tự, nếu đã là Kitô hữu quá lâu năm mà ta vẫn cứ suy nghĩ như «trẻ con về mặt tâm linh» thì đó là điều đáng trách, cũng như học cả chục năm ở trường mà đứa trẻ vẫn cứ ở mãi bậc tiểu học thì không ổn chút nào. Chính vì thế thánh Phaolô mới trách cứ: «Về vấn đề này, chúng tôi còn có nhiều điều phải nói, nhưng khó mà cắt nghĩa, vì anh em đã trở nên uể oải không muốn nghe. Quả thật, với thời gian, đáng lẽ anh em đã phải là những bậc thầy, thế mà anh em lại cần phải để cho người ta dạy anh em những điều sơ đẳng về các sấm ngôn của Thiên Chúa: thay vì thức ăn đặc, anh em lại phải cần dùng sữa. Thật vậy, phàm ai còn phải dùng đến sữa, thì không hiểu gì về đạo lý liên quan đến sự công chính, vì người ấy vẫn là trẻ con. Thức ăn đặc thì dành cho những người đã trưởng thành, những người nhờ thực hành mà rèn luyện được khả năng phân biệt điều lành điều dữ» (Dt 5,11-14)

Trong đoạn trên, có câu «phàm ai còn phải dùng đến sữa, thì không hiểu gì về đạo lý liên quan đến sự công chính» (Dt 5,13). Điều đó cho thấy, muốn hiểu được «đạo lý liên quan đến sự công chính» thì những ai «còn phải dùng đến sữa», nghĩa là chưa trưởng thành về mặt tâm linh, khó mà hiểu được. Một cách nào đó, sự trưởng thành về mặt tâm linh đồng nghĩa với sự công chính, hoặc ít nhất là điều kiện cần thiết để nên công chính.

Vì thế, thánh Phaolô khuyên ta nên tiến bộ hơn: «Gác một bên giáo huấn sơ đẳng về Đức Kitô, chúng ta hãy vươn tới trình độ giáo huấn trưởng thành mà không trở lại những điều căn bản, là lòng sám hối ăn năn vì những việc đưa tới sự chết, là niềm tin vào Thiên Chúa, là giáo lý về mấy loại phép rửa; là nghi thức đặt tay, là vấn đề kẻ chết sống lại và cuộc phán xét cuối cùng...» (Dt 6,1-2).

Nếu các em bậc tiểu học mà cứ nhất định không chịu thay đổi những gì mình đang cho là đúng, để chấp nhận những điều đúng hơn, thì các em sẽ cứ ở mãi bậc tiểu học, không lên được bậc trung học. Khi nghe thầy ở bậc trung học nói về số nhỏ vẫn trừ được số lớn mà các em liền kết luận rằng thầy nói sai rồi, và không chịu học nữa, thì các em không thể nào lên học ở bậc trung học, và càng không thể tiến lên đại học được.

Về tâm linh, không gian tâm linh còn rộng lớn gấp ngàn lần không gian toán học. Nếu chúng ta cứ mãi mãi «còn là trẻ con, nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con» (1Cr 13,11), cứ «thay vì thức ăn đặc, anh em lại chỉ chấp nhận dùng sữa» (Dt 5,12) thì đến bao giờ chúng ta mới trưởng thành về tâm linh được?

Để lên cầu thang từ bậc 1 đến bậc thứ 100, ta phải bước chân phải vào bậc 1, rồi để chân trái lên bậc 2. Sau đó, chân phải lại phải rời khỏi bậc 1 để bước lên bậc 3, rồi chân trái phải rời bậc 2 để bước lên bậc 4. Cứ thế mà tiến dần đến bậc 100. Từ bậc 1 đến bậc 100, bậc nào cũng đều cần thiết và đúng hết. Nhưng nếu cứ dừng lại ở bậc nào đó mà không chịu rời bậc ấy để bước lên bậc cao hơn, thì ta sẽ dừng lại ở đó, không tiến lên được nữa. Các bánh xe của xe hơi hay xe đạp, đều phải tựa vào điểm A đã, rồi bỏ điểm A để đến điểm B kế đó, rồi lại bỏ điểm B để bám vào điểm C… cứ thế mà tiến tới. Không như vậy thì chiếc xe cứ ở một chỗ, hoặc sẽ ngừng lại mãi ở điểm mà nó bám cứng vào, không chịu rời điểm đó để bám vào điểm khác.

Các vị giáo chủ khi giảng dạy cho một khối quần chúng có nhiều trình độ tâm linh khác nhau, không thể tránh được những trường hợp tương tự như ông tiến sĩ toán phải dạy cho đám con cái của mình: đứa thì ở bậc tiểu học, đứa thì trung học, đứa thì đại học, đứa thì cao học... So sánh những lời ông nói ở những trình độ khác nhau, chắc chắn là có những lời có vẻ như mâu thuẫn lẫn nhau, nhưng tất cả đều đúng và đều nhất quán.

Người nào cho rằng: điều mình nghĩ là đúng thì cũng là duy nhất đúng, và tiên thiên không chấp nhận một cách nghĩ khác, phần nào tương tự như em bé tiểu học cho rằng 5 cộng 4 chỉ có thể bằng 9, chứ không thể có một kết luận nào khác. Nếu em tiếp tục học lên những cấp cao hơn, em sẽ thấy sự hiểu biết hay suy nghĩ kiểu «duy nhất đúng» của mình ở cấp tiểu học quả là quá «ấu trĩ». Các chế độ độc tài, độc đoán (trong lãnh vực chính trị, tri thức, tâm linh, tôn giáo, khoa học, v.v...) cũng tương tự như vậy.

«Ai có tai nghe thì nghe!» (Mt 11,15; 13,9; 13,43; Mc 4,9; 4,23; 7,16; Lc 8,8; 14,35; Kh 2,7).

Nguyễn Chính Kết

______________________________________

Chú thích 1:
Trong môn số học cấp tiểu học, thì 5 + 4 tất yếu phải là 9, nói khác đi tất nhiên là sai. Nhưng trong tân toán học, với những khái niệm về tập hợp, khi các tập hợp giao nhau, thì 5 + 4 không nhất thiết phải là 9. 

Chẳng hạn, bài toán sau đây: nhóm A có 5 người, nhóm B có 4 người, hỏi 2 nhóm có bao nhiêu người? 

Các em tiểu học thì có thể trả lời ngay: 2 nhóm cộng lại phải là 9 người; không thể có một giải đáp nào khác. Nhưng một người lớn có đầu óc toán học phải nghĩ tới trường hợp sau đây có thể xảy ra: có một vài người vừa thuộc nhóm A cũng vừa thuộc nhóm B, nên 5 + 4 không nhất thiết phải là 9. 


Đối với các em tiểu học, nếu em nào có đáp số là 9 sẽ được điểm 10; còn nếu khác với 9, cô giáo sẽ cho điểm 0. Nhưng cũng chính cô giáo ấy, khi dậy tân toán học ở lớp cao hơn, nếu có em nào cho đáp số x chỉ là 9, thì em đó sẽ bị bớt điểm, mà đáp số x phải viết   
5  x  9
Nghĩa là đáp số x có thể biến thiên từ 5 đến 9.

Toán học còn có nhiều cấp độ cao hơn nữa. Nói chung, cấp độ thấp khó mà hiểu được cách suy nghĩ của cấp độ cao, mà thường chỉ có thể suy nghĩ trong sự hạn hẹp của mình. Những người suy nghĩ cấp độ thấp thường cho rằng chỉ có suy nghĩ của mình là đúng, và duy nhất đúng. Ai suy nghĩ cao hơn, khác hơn thì dễ bị kết án là sai lạc, điên khùng. Đây cũng chính là lý do khiến các ngôn sứ hay các tiên tri bị người đời bạc đãi, kết án (x. Cv 7,52; Rm 11,3; Lc 11,49-51; 13,34; Mt 5,12b; 17,11-12; 23,29-31.37)Họ là những người biết trước, thấy trước, và muốn giúp người khác thay đổi cách suy nghĩ cho đúng hơn, cao hơn trong các lãnh vực sống của mọi thời đại (trong đó có Đức Giêsu, các tông đồ, và một số các triết nhân, khoa học gia như Socrate, Galilée, v.v...)
Chú thích 2:
Phép lý luận (logic) thông thường của chúng ta, dù có đúng logic tới đâu, không phải lúc nào cũng đúng hay phù hợp với thực tại. Xin đưa ra một vài thí dụ điển hình.

Một bài toán hay một câu đố như sau: «Em A vẽ 1 hình chữ nhật, rồi em B vẽ thêm 2 hình chữ nhật nữa. Hỏi có tất cả mấy hình chữ nhật?»



Nếu cứ theo lý luận thông thường, thì đáp số là 3 (vì 1 + 2 = 3), nhưng đáp số này chỉ đúng trong trường hợp các em vẽ 3 hình riêng biệt. Còn nếu các em vẽ chồng lên nhau, thì có nhiều kiểu chồng lên nhau cách khác nhau, và mỗi kiểu ấy ứng với một đáp số khác nhau.

Như vậy, bài toán (1 + 2 = ?) này có thể có nhiều đáp số khác nhau tùy theo cách em B vẽ và những đáp số khác nhau ấy có thể đều đúng (đương nhiên không phải cứ nói đại một đáp số bất kỳ nào thì cũng đều đúng cả, chỉ có một số giới hạn nào đó đúng thôi).

Có những mệnh đề mâu thuẫn nhau, mà theo logic thông thường thì hễ mệnh đề này đúng thì tất cả những mệnh đề mâu thuẫn với nó ắt phải sai. Nhưng trong thực tế thì mọi vật đều đa diện… nên có nhiều mệnh đề mâu thuẫn nhau mà đều đúng cả. Chẳng hạn, nói về cùng một cái chén ăn cơm, người nói «nó lõm», người nói «nói lồi», hai mệnh đề ấy rõ ràng mâu thuẫn nhau nhưng đều đúng cả.

Hoặc hôm trước, có người nói: «Trong cái lồng ấp trứng này có một vài quả trứng». Không ai động tới hay làm gì thay đổi cái lồng ấy cả, nhưng một người đến sau đó một hai ngày nói: «Trong cái lồng này có một vài con gà». Cả hai người nói hai mệnh đề khác nhau ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cả hai đều đúng. Nhưng nếu người thứ hai đến sau, không thèm tận mắt nhìn vào trong, mà lại bắt chước nói y hệt người thứ nhất, vì nghĩ rằng người kia luôn luôn nói sự thật, thì người thứ hai đã nói một câu sai sự thật.

Share: