Thứ Năm, 31 tháng 5, 2018

Câu chuyện của Phật giáo Thống Nhất Ấn Quang và Nhất Linh



Câu chuyện của Phật giáo Thống Nhất Ấn Quang và Nhất Linh

Bác sĩ Lê Văn Sắc

Câu chuyện của Phật Giáo Thống Nhất Ấn Quang và Nhất Linh thì xin trình bầy rõ sau đây:
1. Về Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) thì mặc dù tôi rất kính trọng ông trong sự nghiệp văn chương, văn hóa (Tự Lực Văn Đoàn) nhưng về chính trị thì tôi thấy có nhiều «vấn đề»:
a. Trước nhất, theo tôi biết thì ông Nhất Linh có 2 người em là Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long) và Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân) bị Việt Minh Cộng Sản giết, ngoài ra Tự Lực Văn Đoàn còn có Khái Hưng (Trần Khánh Dư) bị Việt Minh Cộng Sản cho trôi sông, thế mà sau khi cộng tác với Hồ Chí Minh (làm Bộ Trưởng Ngoại Giao) (năm 1945), ông Nguyễn Tường Tam sợ bị Việt Minh giết nên bỏ trốn sang Tầu nhưng từ đó ông chẳng dám tuyên bố tố cáo Hồ Chí Minh một câu, trái lại theo Ngô Đình Diệm vào Nam lại a dua theo Nguyễn Chánh Thi đảo chánh cụ Diệm năm 1960 trong khi cụ Diệm mới phải tiếp quản một chính phủ «khập khiễng», di chuyển từ Bắc vô Nam, lại còn gánh nặng một triệu người Bắc Kỳ Di Cư chạy trốn cộng sản còn đang ngơ ngác, lạ nước lạ cái, bơ vơ nơi miền Nam bị nhiều người Miền Nam chửi: «Ngoài Bắc đã độc lập tự do mà không ở ngoài đó, vào đây ăn bám tụi tao hả?»
b. Sau năm 1975, những người miền Nam «ghét Bắc Kỳ Di Cư» nói với chúng tôi: «Ngày xưa chúng tôi ghét Bắc Kỳ Di Cư lắm, thấy các ông bà nói về VC tụi tôi không tin, còn chửi mắng các ông bà, nay chỉ ở với VC một năm (sau năm 1975) chúng tôi đã thấy người Bắc Di Cư nói đúng, 10 điều trúng cả 11, 12 điều. Bây giờ chúng tôi thấy tội nghiệp người Bắc và thương người Bắc Di cư lắm...»
c. Có một giáo sư dậy cùng trường tư thục với tôi (trường PSN) có lần mắng tôi: «Tụi mày ngày xưa ở ngoài Bắc chắc là ác lắm, bóc lột lắm nên VC nó mới đấu tố, chứ người ta, bao nhiêu triệu người có thèm di cư như chúng mày đâu».
d. Sau này, người dân miền Nam tìm cách vượt biên, vượt biển bị Việt Cộng ngăn chặn, bắn giết, người Miền Nam mới biết «Việt Minh Cộng Sản ngăn chặn, bắn giết người di cư ở Bắc xưa tàn bạo thế nào thì đã muộn quá».
e. Ông Nguyễn Quang (Quốc Dân Đảng) tức quá, có lần tâm sự: «Tôi là Quốc Dân Đảng nhưng tôi thấy các ‘lãnh tụ’ sao mà ‘dốt quá’, tôi chán. Ngày đó (đảo chánh 1960), các ‘cụ’ ngồi rung đùi hút thuốc lào bảo tôi chạy quanh xem tình hình, tôi ra Phú Lâm thấy sư đoàn 7 (?) kéo về cứu ông Diệm, tôi chạy về bảo các cụ liệu mà chạy trốn không chết đến nơi hết cả bây giờ, còn ngày xưa mới ở Bắc Di Cư vào Nam, chưa ổn định, chưa làm được gì mà ‘các cụ’ đã bảo ‘lập Chiến khu Nam Ngãi’ (của VNQDĐ - ‘Ba Lòng’ (của đảng Đại Việt)  vào đó võ trang chống Ngô Đình Diệm…’, đến khi VC chiếm miền Nam năm 1975, các cụ teo cu hết, câm miệng hết, chả làm được cái gì.»
f. Có lần gặp BS Nguyễn Tường Bách là con trai út của ông Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, tôi hỏi: «Tại sao ông Nguyễn Tường Tam làm việc với Hồ Chí Minh phải tìm dịp bỏ trốn sang Tầu mà từ đó chẳng thấy ông Tam lên tiếng tố cáo Hồ Chí Minh và Việt Minh Cộng sản được một câu (tôi cố ý giữ lại nửa câu mà mới vô Nam được một thời gian ngắn, ông lại theo Nguyễn Chánh Thi đảo chánh ông Diệm?…» BS Nguyễn Tường Bách ‘trả lời gượng gạo: «Cụ không lên tiếng thì bây giờ mình lên tiếng»… Than ôi! Mình lên tiếng ở đâu? Khi nào? Chẳng thấy BS Bách làm được cái gì, và giòng họ Nguyễn Tường và Tự Lực Văn Đoàn im rơ về những cái chết của Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng… Còn Nguyễn Tường Thiết có lần đã được dẫn đến với nhóm Hà Thế Ruyệt (hiện ở Nam California), Khiếu Như Hùng, Võ Minh Tá (cháu Trình Minh Thế) v.v… sau khi nghe Hà Thế Ruyệt «tuyên bố»: Mình lập đảng «đối lập» đây thực sự cũng không qua được cụ Diệm, và Nguyễn Tường Thiết cũng im rơ luôn, im cả trên chính trường, mà nay lại to tiếng chửi bới ông Diệm, ngộ thay!!!… Thế là từ đó Việt Nam Hưng Quốc Đảng tan rã…
2. Với Phật Giáo Ấn Quang thì tôi không cần nói và viết nhiều vì chính Phật Giáo đã xác nhận bản chất tay sai Cộng Sản của họ rồi. Cứ tìm đọc tiểu sử Thích Huyền Quang sau khi Thích Huyền Quang chết và tiểu sử Thích Trí Độ (Phật Giáo Cứu Quốc Việt Cộng) thì biết. Ở đây chỉ xin trích một số đoạn «rõ ràng» nhất:
a. Thích Huyền Quang:
«…Tháng 8 năm 1945, Ngài tham gia kháng chiến chống Pháp giành độc lập dân tộc ở Liên khu 5, giữ chức vụ Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Phật giáo Cứu quốc Liên khu 5» do Thích Trí Độ lãnh đạo lập (sau 1954 Thích Trí Độ được cho làm Chủ Tịch Giáo Hội Phật Giáo Miền Bắc (Cộng Sản), mà trong tiểu sử Thích Huyền Quang có liệt kê đầy đủ các học trò «cốt cán» của Thích Trí Độ (gồm Thích Trí Quang, Thích Thiện Hoa, Thích Thiện Hòa, Thích Thiện Minh (lớn), Thích Đôn Hậu, Thích Quảng Liên, Thích Huyền Quang, Thích Trí Thủ… trong Phật Giáo Cứu Quốc (Việt Cộng) ở Liên Khu 5 và năm 1992, trong «Yêu Cầu cứu xét 9 điểm» trong đó, Thích Huyền Quang có xác nhận «kể công» là Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất đã có công sát cánh với Đảng và Nhà Nước Cộng sản đấu tranh tạo nên chiến thắng 30-4-1975 mà nhà nước làm ngơ, bỏ qua công trạng đó, lại còn trở mặt đàn áp.... Trong Đại Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại San Jose năm 1993 (do Thượng Tọa Thích Giác Lượng làm Trưởng Ban Tổ Chức) có đọc tuyên bố đó (và có đăng trong Đặc San của Đại Hội này). Như vậy, đã rõ ràng Thích Huyền Quang xác nhận Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất làm tay sai cho Việt Cộng. Có lần nói chuyện với ông Đoàn Bỉnh Viên về tổ chức Phật Giáo Cứu Quốc, ông Đoàn Bỉnh Viên xác nhận điều đó đúng và ông bảo «sau năm 1975, Thích Trí Độ có vô Miền Nam»… Sau năm 1993, sau khi sang Mỹ, ông Nguyễn Quang nói trên (Việt Nam Quốc Dân Đảng) cho biết ông có lần ông xuống tầng hầm (basement) của Pháp Duyên Tịnh Xá của HT Thích Giác Lượng có thấy cuốn đặc san của Đại Hội ấy, đem về nhà đọc. Nói chuyện với Thiếu Tá Trần Phi Cơ (khóa 20 Võ Bị Đà Lạt) về chuyện ấy, ông xác nhận có đọc đặc san và Thỉnh Nguyện Thư ấy của Thích Huyền Quang sau khi ông đến Mỹ.
b. Về Thích Trí Độ thì tiểu sử của ông ta có ghi đầy đủ các công trạng làm tay sai cho Cộng Sản Vô Thần, chứng tỏ Thích Trí Độ và đám học trò Thích Trí Quang, Thích Thiện Hoa, Thích Thiện Hòa, Thích Thiện Minh (lớn), Thích Quảng Liên, Thích Đôn Hậu, Thích Huyền Quang, Thích Nhất Hạnh…  không phải là Phật Giáo hữu thần, không nắm vững nguyên lý của Đức Phật, đem Phật Giáo vào làm tay sai cho Cộng sản vô thần. Tiểu sử Thích Trí Độ ghi rõ: «Từ năm 1945, Sư tham gia phong trào Phật giáo Cứu quốc. Năm 1946, Hội Phật giáo Bắc Kỳ mời Sư ra mở trường giảng dạy hoằng pháp tại chùa Quán Sứ, Hà Nội[1]. Toàn quốc kháng chiến nổ ra, Sư tản cư vào Thanh Hóa, tham gia các công tác xã hội văn hóa trên cương vị một nhà tu hành[3]. Năm 1950, Sư được bầu làm Ủy viên Ủy ban Liên Việt tại Thanh Hóa. Năm 1953, Sư được Mặt trận Việt Minhchỉ định làm Ủy viên Ủy ban Việt NamBảo vệ Hòa bình Thế giới.»
«Sau Hiệp định Genève, 1954, Sư trở về Hà Nội trụ trì chùa Quán Sứ. Năm 1956, Sư dẫn đoàn đại biểu Phật giáo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Ấn Độ dự lễ kỷ niệm 2.500 năm Phật đản sanh. Sau khi về nước, Sư đã tích cực vận động Tăng Ni Phật tử các tỉnh miền Bắc để thành lập một tổ chức Phật giáo thống nhất. Tháng 3 năm 1958, Hội Phật giáo Thống nhất được thành lập, Sư được (cử làm) Hội trưởng và giữ chức vụ này liên tục cho đến ngày viên tịch». Vì Thích Trí Độ đã được giao nhiệm vụ lãnh đạo Phật Giáo Thống Nhất, nên câu chuyện mà đám học trò ở Miền Nam lập Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất tại Saigon chẳng qua chỉ là phó bản (trực thuộc) mà thôi nên chuyện đòi có 2 giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất thấy ‘kỳ’ làm sao!!!
Tóm lại, «quý vị quốc gia» không nên tranh luận với đám sư cộng sản vô thần ấy làm chi. Nếu cần chỉ cần bảo cho «những kẻ u minh ấy» tìm đọc Đặc San Đại Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất năm 1993 là thấy rõ hết và nếu cần xin tiếp xúc với Trưởng Ban Tổ Chức Hòa Thượng Thích Giác Lượng hiện ở Modesto, California mà xin tài liệu…
12/11/2017
Bác sĩ Lê Văn Sắc



Chính trị − Văn hóa − Xã hội
Share:

59 điều Tổng thống Donald Trump đã làm cho dân Mỹ



59 điều Tổng thống Donald Trump
đã làm cho dân Mỹ.


Phải nói rằng TT Trump vẫn được nhiều người ủng hộ vì ông không chỉ nói mà ông còn làm. Nhậm chức được 1 năm nhưng ông đã làm được rất nhiều điều, một TT như vậy thật khó có thể mong chờ nhiều hơn trong lúc kinh tế có gặp khó khăn. Tuy nhiên nhiều người vẫn không hẳn ưa thích ông, hãy cùng xem ông làm được 59 điều gì.

59 điều Tổng thống Donald Trump đã làm kể từ khi vào Nhà Trắng.

1/ Bổ nhiệm chánh án Gorsuch người Công giáo bảo thủ vào tòa án Tối Cao, để bảo vệ đạo đức, chống lại với những chánh án thiên tả, như họ ủng hộ phá thai.

2/ Mạnh tay gửi 59 trái hỏa tiễn Tomahawk, phá nát phi trường quân đội Syriađã dùng để tung máy bay bỏ bom hóa học giết thường dân.

3/ Rút chân Mỹ ra khỏi hiệp định TPP, làm cho cộng sản Trung Quốc và Việt Namrất buồn vì mất lợi.

4/ Nhập cư lậu giảm 70%, thấp nhất trong 17 năm qua. Đơn giản rất dễ biết, ngoài biên giới người bị bắt giảm nhiều, trợ cấp của chính phủ giúp cho người không giấy tờ, ngày càng ít người quay lại xin tiếp, ngoài cửa khẩu người đi ra chợt đông gấp mấy lần người đi vào.

5/ Chỉ số phấn khởi của người tiêu dùng sẽ bỏ tiền ra tiêu xài, là cao nhất từ năm 2000, kinh tế gia báo cáo nó đạt đến 125 điểm.

6/ Đơn của người có khả năng xin mượn nợ để mua nhà là cao nhất 7 năm qua.

7/ Sắp xếp để tăng thuế nhập khẩu gỗ Canada, từ 7% lên 24%, giúp bảo vệ ngành sản xuất gỗ xây nhà của nội địa.

8/ Bức tường biên giới vẫn đang hoàn thiện, xây xong sẽ tiết kiệm ngân sách quốc gia mỗi năm 90 tỷ đô, nuôi người nhập lậu không việc làm.

9/ Rút chân Mỹ ra khỏi khế ước Ba-lê về hoán đổi khí hậu toàn cầu. Mỗi năm thế giới giúp Trung Quốc vài chục triệu đô để chống không khí ô nhiễm, mà nó cứ xả thải thoải mái.

10/ Cho phép công trình ống dẫn dầu Keystone xuyên quốc gia được tiếp tục xây cho xong, để biến Mỹ thành nước xuất khẩu dầu nhiều nhất, thay vì nhập khẩu nhiều nhất. Obama là người đã dừng dự án đó, lý do sợ bể ống ô nhiễm môi trường.

11/ Buộc các nước thành viên của khối NATO phải tự chi thêm 4% chi phí quốc phòng, để Mỹ nhẹ bớt gánh nặng .

12/ Cho phép cục Cựu Quân Nhân đuổi những nhân viên ỷ làm nhà nước lơ là công việc, bạc đãi thương binh.

13/ Cho phép cựu quân nhân nếu không thích y tế công của chính phủ, thì có quyền dùng y tế tư, mà chính phủ vẫn trả tiền.

14/ Năm qua cả nước có báo cáo thêm được 600 ngàn công việc làm mới.

15/ Lợi tức trung bình của một gia đình cao nhất 7 năm qua.

16/ Thị trường chứng khoán chưa bao giờ đổi chác cao như thế.

17/ Tàu cộng phải để cho thịt bò của Mỹ được nhập khẩu vào Trung Quốc cạnh tranh trở lại, họ đã cấm để bảo vệ ngành chăn nuôi nội địa.

18/ Hủy 90 luật không cần thiết của Obama đã ký, tiết kiệm ngân sách được 89 tỷ. Thí dụ như buộc bộ Nội Vụ mướn thêm 2000 kiểm lâm, để không cho ai mang đạn chì vào đất nhà nước đi săn, vì chì là chất độc có hại cho sức khỏe.

19/ Hủy một luật , để ngành khai thác than đá được mở cửa trở lại.

20/ Không cần nhân từ với khủng bố nữa, cho phép dùng bom MOAB, loại bom thuốc nổ khủng nhất, nó chỉ thua mỗi bom nguyên tử thôi. Thả một trái bình địa căn cứ, giết một hơi 94 tên .

21/ Ký lệnh cấm du khách 7 nước hồi giáo, để ngăn khủng bố xâm nhập vào.

22/ Ký lệnh cho phép tôn giáo được nhận tiền chính phủ đi làm từ thiện, ngày trước là phải công tư làm riêng.

23/ Obama đóng cửa trung tâm thám hiểm không gian NASA, Trump mở trở lại. Hoa kỳ phải được tiếp tục bỏ xa các nước về vũ trụ không gian.

24/ Cắt 600 triệu chi cho lính Liên hiệp quốc gìn giữ hòa bình, buộc các nước khác phải chi thêm.

25/ Băng đảng xã hội đen MS13 xuất xứ từ Nam Mỹ, có 70 ngàn thành viên, tung hoành thế giới không ai trị được. Trump cho bắt 264 tên đầu xỏ, chúng nó tan hàng dẹp nghề.

26/ Trục xuất tội phạm gốc di dân nhập lậu, ngay lập tức.

27/ Ký 41 luật về phúc lợi dân sinh.

28/ Thành lập ban chống buôn trẻ em quốc tế.

29/ Thành lập ban kiểm soát gắt việc bầu cử.

30/ Thành lập ban chuyên tìm hiểu chống ma túy.

31/ Cho phép các tiểu bang kiểm ma túy những người lãnh tiền thất nghiệp của chính phủ trung ương.

32/ Do đó báo cáo thất nghiệp là thấp nhất mươi năm qua .

33/ Khởi động việc xây thêm đại học riêng cho người da đen.

34/ Ký đạo luật yểm trợ nữ doanh nhân.

35/ Đổi ngược luât có tên Dodd-Frank mà Obama đã ký, luật đó giới hạn quyền khách hàng được bóc mẽ giới làm ăn.

36/ Lập văn phòng liên kết các ban bộ về tội phạm nhập cư lậu.

37/ Không cho phép bộ Giao Thông cản trở nữa chính quyền quận huyện lo chuyện đường xá.

38/ Lệnh tăng cường chống tội phạm trả thù cảnh sát.

39/ Cho phép buộc thiếu niên sanh ở Mỹ, con em của người nhập lậu, cũng phải bị trục xuất theo cha mẹ. Cha mẹ về nước được làm giấy cho con đưa gia đình di dân đúng theo luật.

40/ Ngừa không cho Cty dọn xưởng đi nước ngoài.

41/ Tạo mọi điều kiện để Cty không còn muốn dọn đi.

42/ Lần nữa khuyến khích ngừơi dân dùng hàng sản xuất nội địa.

43/ Hứa đơn giản luật lệ hiện hành, cứ mỗi luật ông muốn ra, ông phải hủy bỏ đi 2 luật cũ.

44/ Rà soát lại các khế ước kinh tế với các nước, để chắc rằng Mỹ luôn được lợi nhất.

45/ Mở rộng ngành học nghề.

46/ Công xưởng ra đời nhiều nhất 3 năm qua.

47/ Các tập đoàn đại công ty cùng hứa đầu tư 87 tỷ tạo việc làm.

48/ Cơ quan FBI xin được xây nhà mới, ông từ chối.

49/ Obama ký mua 90 chiếc phi cơ F-35 tàng hình đời mới cho bộ Quốc Phòng, với giá 8 tỷ rưỡi. Trump vừa đánh tiếng chê giá cao, muốn điều đình lại với công ty Lockheed, thì họ đã tự bớt cho chính phủ 700 triệu đô.

50/ Làm cho đồng minh kính nể Mỹ nhất, và cộng sản sợ Mỹ nhất, trong 42 năm qua.

51/ Cắt giảm nhân công Nhà Trắng, tiết kiệm 22 triệu.

52/ Tháng 04/2017 bộ Ngân khố báo cáo bội thu 182 tỷ nhiều hơn là chi ra.

53/ Điều đình cho 6 công dân Mỹ bị bắt cóc được thả bên Ai-cập.

54/ Vì cho khai thác dầu dễ dãi, giá xăng rẻ nhất trong vài năm qua cho dân dễ thở.

55/ Có chính sách để Mỹ tự lực về nhiên liệu, không còn lệ thuộc dầu hỏa Trung Đông.

56/ Là tổng thống ít hành hạ dân nhất.

57/ Thỏa thuận với quốc hội, để sửa luật nhiều nhất trong vòng 100 ngày mới nhậm chức.

58/ LÀm gương để yêu cầu cả 3 ngành chính phủ, lập pháp, hành pháp và chấp pháp, trong vòng 6 tháng, phải lên kế hoạch cắt giảm tiền.

59/ Lương tổng thống 400 ngàn đô một năm, ông chỉ lãnh 1 đô tượng trưng, còn lại tặng để lo cho lính.




Chính trị − Văn hóa − Xã hội
Share:

Thứ Tư, 30 tháng 5, 2018

Kissinger Xác Nhận «Hoa Kỳ Tự Trói Tay Để Thua CSVN Chứ Không Do VNCH»



Kissinger Xác Nhận «Hoa Kỳ Tự Trói Tay Để Thua CSVN Chứ Không Do VNCH»


Mường Giang

Posted on Tháng Mười 27, 2013 bởi BÁO TỔ QUỐC

Sau hơn ba mươi bảy năm VNCH bị sụp đổ tính từ ngày 30-4-1975, nhưng tới nay vẫn còn nhiều tác giả ngoại quốc khi viết về cuộc chiến trên, vẫn cứ dựa vào các tài liệu tuyên truyền của cộng sản, nên thường lý luận một chiều, đôi lúc thật hàm hồ bừa bãi. Chính những cuốn sách này, đã khiến cho ai khi đọc tới cũng đều có cái cảm tưởng là «Những người lãnh đạo nước Mỹ lúc đó toàn ngu xuẩn hay điên rồ», nên mới bị sa lầy và tháo chạy khỏi miền Nam, vào ngày 30-4-1975 một cách nhục nhã. Riêng đối với người Mỹ qua thói quen tự cao tự đại, sau khi tháo chạy khỏi chiến trường Đông Dương để bị mang tiếng bội tín với thế giới tự do, vì không giữ được lời hứa «bảo đảm quyền sống tự do của đồng bào Nam VN, Lào, Cambốt». vẫn cứ phải loay hoay giữa «tự ái và lương tâm» khi muốn giải đáp trước công luận, lý do tại sao «Một cường quốc bách chiến bách thắng như Mỹ lúc đó và ngay cả ngày nay», lại có thể bị thua trước một đối phương nhỏ bé, lạc hậu như cộng sản Bắc Việt? cho dù đối phương có được Nga, Tàu viện trợ và chống lưng.

Ngày nay nhờ những khai quật từ các văn khố khắp thế giới, nhất là sự sụp đổ của gần hết khối xã hội chủ nghĩa trong đó có Liên Xô và các nước Ðông Âu nhưng quan trọng nhất vẫn là những bản tự khai của các chóp bu tại Bắc Bộ Phủ, cho ta nhận rõ phần nào giải đáp trên, khi đã biết rõ thực chất của cuộc chiến Việt Nam (1955-1975). Tất cả từ đầu cho tới cuối, hoàn toàn «không ăn nhập gì tới lòng ái quốc, yêu nước thương dân», mà báo chí Tây Phương thường gán ghép để có cớ ca tụng Hồ Chí Minh và đảng VC trong suốt cuộc chiến, vì họ bị tuyên truyền một chiều. Nay sự thật đã bị phanh phui, gây chiến tại Ðông Dương lần thứ 2 (1946-1975), thật sự «là không cần thiết lúc đó».

Vì đối với Liên Xô thời đó, gây chiến «lại là kế hoạch nô lệ hoá toàn cầu của cộng sản đệ tam quốc tế». Ðiều này ngày nay cũng đã được nhiều cán bộ cao cấp của VC như Trần Bạch Ðằng, Võ Văn Kiệt. . xác nhận. Còn hậu cứ lớn không phải tại Hà Nội, mà ở tận Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh, được Hồ Chí Minh cùng đồng đảng mang về bành trướng khắp nước. Sứ mạng của Hồ đã hoàn thành một phần, ít ra là đã nhuộm đỏ được ba nước Việt-Lào-Cao Mên trên bán đảo Ðông Dương. Nhưng chiến thắng không phải do quân sự mang tới, mà nhờ vào «sự hèn nhát thụ động, của tập thể quần chúng trong vùng», vì sợ sự khủng bố tàn độc của chủ nghĩa cộng sản nên cúi đầu tùng phục, để được yên ổn sống, dù là kiếp sống nô lệ hèn thừa bên lề đường như hiện tại trong thiên đường xã nghĩa VN.

Do đó, hầu hết đã phó mặc vận mệnh của đất nước, của chính bản thân và gia đình mình cho ai muốn làm lãnh tụ cũng được, coi đó như là chuyện không có liên can gì tới họ. Tóm lại «Chiến tranh VN vừa qua» là một cuộc chiến vô cùng phức tạp, giống như Pháp năm 1954, người Mỹ đã thua cộng sản trong mặt trận ý chí tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn và tàn nhẫn bất công ngay trên đất nước mình, chứ không phải ở chiến trường Ðông Dương. Cũng từ đó, người Mỹ thường nhắc nhớ tới thành ngữ No more Việt Nam như một thứ mặc cảm tội lỗi, luôn đè nặng đất nước Hoa Kỳ, cho tới lúc Tổng thống Reagan vào ngày 21-5-1982, khai sinh một nước Mỹ mới, khi tuyên bố chiến lược tấn công, để ngăn chận sự bành trướng của khối cộng sản quốc tế.

Từ đó người Mỹ mới thôi cúi mặt và bắt đầu phục hồi danh dự cho những chiến binh Hoa Kỳ, đã tham chiến tại VN từ 1955-1975 và gọi đây là một trong những cuộc chiến chính nghĩa vĩ đại nhất, mà nhân dân Hoa Kỳ đã thực hiện được kể từ ngày lập quốc tới nay. Ðối với VNCH dù người lính miền Nam đã hy sinh tột đỉnh nhưng cũng chỉ giữ được nửa mảnh đất quê hương từ Bến Hải vào tới Cà Mâu, vỏn vẹn chỉ có hai mươi năm trường kỳ máu lệ. Tất cả «không phải vì QLVNCH không chịu chiến đấu trước kẻ thù, hoặc Miền Nam không có tướng tài và cấp lãnh đạo xứng đáng sau khi Tổng Thống Ngô Ðình Diệm bị sát hại hay Chính Phủ VNCH không có chính nghĩa như Thượng Nghị Sĩ Mỹ là Mc. Cain từng tuyên bố trên báo chí. .» mà là NƯỚC MẮT NHƯỢC TIỂU VN.

Nói đúng hơn, chúng ta đã bị Thực Dân Mới nhân danh Liên Hiệp Quốc, bán đứng trong canh bài phân chia ranh giới chính trị, quân sự giữa hai khối tư bản và cộng sản, đã sắp xếp sẵn sau khi Ðệ Nhị Thế Chiến kết thúc. Nhiều nước Ðông Âu kể cả Ðức cũng chịu chung số phận nhược tiểu như VN và Cao Ly, khi nằm trong thế cờ quốc tế đã định đoạt sẵn. Nhưng may thay Họ đã tự mình tháo gỡ được gông cùm nô lệ cộng sản vào đầu năm 1990, khi Liên Bang Sô Viết và phần lớn khối cộng sản đệ tam quốc tế tan rã.

Tháng 7-1954, Pháp thua trận Ðiện Biên Phủ đưa tới thỏa hiệp Genève chia hai đất nước VN, giống như tình trạng của Ðức và Cao Ly năm 1945. Theo nhận xét của GS người Mỹ Hans Morgenthau, thì đây là trò che đậy sự bất đồng, cũng là sự phân chia sẵn ranh giới chính trị, quân sự giữa khối cộng sản và Tây Phương, sau khi kết thúc đệ nhị thế chiến. Tại Châu Âu, từ năm 1947 Liên Xô xé bỏ cam kết, mặc sức tung hoành, dùng quân sự lần hồi cưỡng chiếm các nước quanh vùng, dựng khối Ðông Âu, cô lập trong bức màn sắt.

Tây Bá Linh và hai nước đồng minh của Mỹ lúc đó là Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ cũng bị nguy khốn, sắp rơi vào tay cộng sản. Ðể đối phó với tình trạng trên, Tổng Thống Mỹ Truman buộc lòng phải ban hành chiến lược “Ngăn Chặn, đồng thời khai sinh chương trình “Marshall, viện trợ giúp cho các nước Tây Âu phục hồi kinh tế, quân sự đã bị thế chiến tàn phá. Song song Mỹ và các nước trên thành lập Tổ chức Minh Ước Bắc Ðại Tây Dương, nhằm liên kết quân sự, để bảo vệ lẫn nhau và chống lại sự xâm lăng của Liên Xô và khối cộng sản quốc tế.

Nói chung những nước nào được Mỹ khoanh vùng, thì được gọi là Ðồng Minh và tận tình bảo vệ như Cao Ly và Ðài Loan ở Viễn Ðông. Nhưng dù chiến tranh có xảy ra dưới một hình thức nào chăng nửa, kể cả cuộc chiến thế giới tại bán đảo Triều Tiên năm 1950, thì chủ trương của nước Mỹ qua tuyên bố của Tổng Thống Truman, chỉ để “tái lập hòa bình và biên giới sẵn có đã được qui định từ trước. Ðây cũng là chiến lược của Mỹ khi tham chiến tại VN từ 1960-1975, qua nhiều đời tổng thống của lưỡng đảng, chỉ nhằm mục đích «ngăn chận làn sóng đỏ đừng lấn qua ranh giới đã phân chia sẵn», chứ không phải tới để giúp cho VN «giải phóng khỏi ách nô lệ cộng sản». Vì vậy cuối cùng để hoàn thành chiến lược, cần phải thương thuyết hòa bình, chứ không phải đánh nhau để kết thúc chiến tranh tại đó, khi người Mỹ đã đạt được chiến lược toàn cầu, có lợi cho quyền lợi của nước Mỹ.

Ðiều bất hạnh nhất của dân tộc VN mà bất cứ ai cũng nhận thấy, là đã có chung biên giới với nước Tàu. Ðã vậy còn bị lọt vào quỷ đạo của người Mỹ, khi Hoa Lục và Bắc Việt bị nhuộm đỏ. Nên vừa nhậm chức Tổng Thống Mỹ, Eisenhower đã tuyên bố không để mất Ðông Dương vì đây là một trong những quân bài Domino toàn vùng Ðông Nam Á, mà VN là tiền đồn quan trọng nhất. Còn John Kennedy, từ lúc còn là thượng nghị sĩ vào năm 1956 cũng đã coi VN rất quan trọng trong chiến lược quốc phòng của Hoa Kỳ, qua các yếu tố địa dư chính trị. Vì vậy khi đắc cử Tổng Thống, Ông đã chọn Miền Nam VN làm một thí điểm tại Châu Á, để thực thi nền dân chủ tự do chống lại chủ nghĩa độc tài khủng bố cộng sản.

Ðây cũng là một cuộc trắc nghiệm đầu tiên sau hai cuộc thế chiến vừa qua, để đo lường về ý thức trách nhiệm cùng bổn phận của siêu cường Mỹ đứng đầu khối tự do. . chống lại chủ nghĩa cộng sản. Nhờ vậy ngày nay người ta mới có được những kết luận rất mẫu mực, về cái gọi là «chính nghĩa mập mờ của người Mỹ tại chiến trường VN», nói là để giúp dân tộc này chống lại cuộc xâm lăng của Bắc Việt. Tất cả chỉ là «một chiến lược què quặt bất nhất», do một mặt «thì sợ dư luận của quần chúng Mỹ phản đối bị mất phiếu», mặt khác «cứ ham muốn đạt nhanh chiến thắng tại chiến trường» nhưng lại không cho phép phe mình tấn công tiêu diệt địch quân, với lý do «sợ đụng độ với Trung Cộng». Ngoài ra các vị Tổng Thống có liên quan tới chiến tranh VN như J. Kennedy, Johnson, Nixon và Ford đều chỉ xử dụng những phương tiện nhỏ để đòi đạt chiến thắng lớn, nên cuối cùng phải bị sa lầy về mặt đạo đức, làm cho nước Mỹ bị thế giới cười chê về thủ đoạn con buôn chính trị, từ sau tháng 5-1975 tới nay vẫn chưa lấy lại được uy tín cũ đã đánh mất tại VN.

Nhưng dù tại chiến trường VN trước năm 1975, Hoa Kỳ không hề bị sa lầy vẫn phải đóng kịch tháo chạy vì mục đích nối kết với Trung Cộng, phá vỡ thế liên hoàn Nga-Hoa đã hoàn thành từ 1972. .

1. Hoa Kỳ Không Bao Giờ Sa Lầy Tại NamVN

Sau khi rời khỏi chính trường năm 1977, Ngoại trưởng kiêm cố vấn an ninh quốc gia Kissinger, nhân vật mang tiếng đã manh tâm bán đứng VNCH cho khối cộng sản đệ tam quốc tế, đã lần lượt xuất bản nhiều tập hồi ký chính trị như: Những năm tháng ở Bạch Cung (1979), Niên đại sóng gió (1982) và Bí Lục Kissinger. . đã hé mở nhiều bí ẩn lịch sử cận đại về các thời kỳ chiến tranh lạnh giữa Mỹ-Liên Xô-Trung Cộng, Chiến tranh VN và cuộc thăm viếng Trung Cộng của Tổng thống Mỹ Richard Nixon vào tháng 2-1972, trước khi Hà Nội mở cuộc tấn công mùa hè vào các tỉnh Quảng Trị-Bình Long và Kon Tum, Bình Ðịnh của VNCH.

Cũng nhờ những tiết lộ này, mà ngày nay ta mới biết được bộ mặt thật của cặp Nixon-Kissinger, chỉ vì lợi lộc của riêng mình đã bán đứng đồng minh bạn bè cho kẻ thù. Vì muốn kéo Trung Cộng vào phe cánh, Hoa Kỳ qua Nixon-Kissinger đã chủ động đề nghị viện trợ tối đa cho Tàu tất cả những quân dụng vũ khí chiến lược, kể cả cung cấp vệ tinh để Tàu thu lượm tin tức tình báo từ Liên Xô. Theo Bill Burr, chuyên gia nghiên cứu các vấn đề ngoại giao của Mỹ, thuộc Ðại Học Washington, cũng là chủ biên hồi ký Bí lục Kissinger, cho biết cuộc đi đêm bí mật của Kissinger tại Bắc Kinh, khởi đầu từ năm 1971 qua đề nghị Hoa Kỳ sẽ thiết lập một chương trình vệ tinh tình báo để tặng Trung Cộng.

Sau đó tại trụ sở LHQ ở New York vào tháng 12-1971, Kissinger đã cho Hoàng Hoa nhiều tin tức liên quan tới quân sự của Liên Xô để chuyển về Tàu. Tuy vậy để che mắt Liên Xô và thế giới, Hoa Kỳ cũng như Trung Cộng luôn đóng kịch kình chống nhau tại bàn hội nghị. Như trường hợp VN, trước khi Tổng thống Nixon chính thức thăm Trung Cộng và sau này, Kissinger đã bí mật tới Bắc Kinh rất nhiều lần để gặp cả Mao-Chu và Trung Cộng cũng đã đáp ứng cho Mỹ thiết lập một trạm tình báo quân sự, dọc theo biên giới Nga-Hoa để thu lượm tin tức, theo dõi tình hình chuyển động của Liên Xô.

Tháng 7-1973, một điệp viên CIA tên James Lilley được cử giữ chức trưởng trạm tình báo này, cũng là người trực tiếp phụ trách đường dây liên lạc Trung-Mỹ. Tháng 4-1975 theo yêu cầu của Ðặng Tiểu Bình, Tổng thống G. Ford đã viện trợ cho Trung Cộng rất nhiều quân trang dụng chiến lược, trong đó có nhiều thiết bị điện tử dùng để chế tạo vũ khí bom đạn hiện đại. Kissinger còn tiết lộ nội dung cuộc họp thượng đỉnh giữa Nga-Mỹ cho Trung Cộng. Tất cả cho thấy mức độ khả tín của người Mỹ trong lúc cùng hợp tác đồng minh, để từ đó chúng ta mới nhận diện rõ ràng «về ý nghĩa của sự sa lầy tại VN», mà các sử gia trong và ngoài nước thường hay gán ghép cho Hoa Kỳ.

Ðọc lịch sử nước Mỹ, ta thấy dù dân chủ hay cộng hòa, tổng thống hèn kém như Carter hoặc cứng rắn cỡ Reagan, thì ưu tiên số 1 của chính phủ cũng vẫn là làm sao cho dân chúng Hoa Kỳ được hưởng thụ nhiều hơn trước, để đảng nọ đảng kia mới còn cơ hội tái đắc cử cầm quyền tiếp. Hiểu thêm điều này nữa, mới cảm thấy bớt uất nghẹn khi biết Tổng thống Johnson đã đưa vào VN tới 550. 000 quân + 80. 000 của các nước Ðồng Minh và 150 tỷ đô la chiến phí. Rồi đang lúc VNCH sắp đạt được chiến thắng cuối cùng, qua các trận đại chiến vào Tết Mậu Thân 1968, các cuộc hành quân Toàn Thắng vượt biên giới sang Kampuchia 1970 và nhất là trận Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972. . thì Tổng Thống Mỹ là Nixon, kế thừa chiến lược của TT. Johnson lại ký Hiệp ước ngưng bắn Paris1973 «tháo chạy khỏi VN», bỏ mặc cho Miền Nambị toàn khối cộng sản đệ tam quốc tế” cưỡng đoạt vào trưa ngày 30-4-1975”.

Ngày nay nhờ Quốc Hội Mỹ đã thông qua đạo luật Quyền tự do tư liệu và thông tin, nên Thư Viện Quốc Gia Mỹ đã giải cấm những văn kiện tuyệt mật, có liên quan tới cuộc chiến Ðông Dương lần 2 (1945-1975), qua nhiều đời Tổng Thống Mỹ liên hệ, từ Truman cho tới Carter. . Nhờ vậy người ngoài mới biết được những bi hài kịch đã diễn ra suốt thời gian Mỹ tham chiến tại VN, ngay trong hậu trường của những chóp bu tại Tòa Bạch Ốc, mà những nhân vật quyết định vận mạng của VN, phần lớn là Dân Sự hay Chuyên Viên Hành Chánh, trong đó hầu hết chưa một ngày ở trong quân ngũ hay trốn quân dịch như trường hợp của Tổng Thống Bill Clinton sau này.

Ðó là việc quân lực Mỹ chưa bao giờ được phép xử dụng hết khả năng chiến đấu, nhất là hai quân chủng Không và Hải quân Hoa Kỳ, chủ nhân ông của bất cứ chiến trường nào, rất được thế giới nể sợ. Còn một bí mật khác cũng không kém phần bi thảm, đó là khi Mỹ đưa quân đội mình tới chiến đấu ở VN, thì cũng đồng lúc tư bản Mỹ tha hồ xuất cảng quân trạng dụng sang Nga, các nước Ðông Âu lẫn Tàu. Sau đó các nước này thay nhãn đổi hiệu, rồi lại chuyển tiếp tới Hà Nội, để Bắc Việt chuyển vận vào Miền Nam cho Bộ đội Cộng Sản có phương tiện dồi dào, bắn giết chẳng những QLVNCH mà cả quân Mỹ và các nước đồng minh đang chiến đấu tại chiến trường.

Nói chung dù có thái độ cứng rắn như Tổng thống Truman, trước chủ nghĩa bành trướng sắt máu của Trùm Ðỏ Staline vào năm 1947 hay to miệng nhảy múa chống cộng cùng mình như Tổng thống Nixon, thì cuối cùng cũng vẫn là cùng thỏa thuận với nhau để chia chiến lợi phẩm trên xác chết của con mồi. Ðó là chân lý của nền chính trị con buôn kiểu tư bản Mỹ, vừa la làng xúi giục cũng như viện trợ để đồng minh chống cộng. Rồi cũng Mỹ lại rất tích cực buôn bán đủ thứ kể cả quân dụng vũ khí tối mật quốc phòng với các nước cộng sản trên. . như hiện tại cuộc giao dịch giữa Mỹ và hai nước Trung Cộng-Ðài Loan, ai cũng thấy. Ðây cũng là một chứng minh thực tế, để cho bất cứ ai còn đang mang ảo tưởng vọng ngoại, trong công cuộc quang phục đất nước khỏi gông cùm cộng sản, xin chớ có hoài công đợi chờ. Vì con đường giải thể chế độ VC hiện nay chỉ có toàn dân VN phải chịu lăn xả hy sinh đổ máu như người Miến, người Tạng. . thì mới hy vọng tháo gỡ được cùm gông, vì chính họ trong quá khứ đã tự mình mang vào cổ ách nô lệ cộng sản.

2. Hoa Kỳ Tự Trói Tay Để Thua CS Bắc Việt, Chứ Không Phải Tại VNCH

Riêng về câu hỏi tại sao siêu cường Mỹ với một bộ máy chiến tranh ghê gớm, lại để cho 55. 000 quân sĩ thiệt mạng và mấy trăm ngàn người khác bị thương? cuối cùng tháo chạy, sau khi chỉ lấy được về nước, một số tù binh bị Bắc Việt cầm tù. Ðô đốc Grant Sharp, cựu tư lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, đã giải thích “cuộc chiến thất bại không phải vì chống không lại địch quân, mà vì chính sách của Hoa Thịnh Ðốn đã đẻ ra quá nhiều chiến lược, nào leo dần tới đáp ứng, rồi đang mềm dẻo đột nhiên dội bom, sau đó tự ý ngưng và thương thuyết tại bàn hội nghị để đạt chiến thắng. Cuối cùng tự mình trói tay đầu hàng, rồi tháo chạy khỏi chiến trường, dù chẳng hề bị sa lầy hay bị lâm vào tuyệt lộ” .

Ðây cũng là kết quả như lời cảnh giác của Tướng Maxwell Taylor, nguyên cố vấn quân sự của Tổng Thống J. Kennedy từ năm 1961: «Nếu Hoa Kỳ tới VN với mục đích tối hậu, là giúp cho nước này chống lại sự xâm lăng của cộng sản, thì cuộc chiến sẽ không có giới hạn, nên chúng ta không thể không đánh thẳng ra Hà Nội, để tiêu diệt sào huyệt của chúng». Nhưng tiếc thay đất Bắc nơi phái sinh ra cuộc chiến VN, lại là vùng đất bảo đảm an toàn nhất, mà các tổng thống Mỹ dành cho VC. . Ðã vậy TT Johnson còn cấm quân Mỹ không được tấn công hay truy sát quân Bắc Việt, tại lãnh thổ Lào và Kampuchia giáp ranh với VN. Trong khi đó ai cũng biết trên phần đất này, Hà Nội đang mở đường mòn HCM, lập các khu hậu cần, mật khu, tích trữ lương thực quân dụng và tập trung quân để tấn công vào lãnh thổ VNCH. . Chính cựu Tổng thống Eisenhower cũng lên tiếng thắc mắc là tại sao TT. Johnson lại không dám tấn công thẳng vào đầu nảo của quân Bắc Việt tại Hà Nội, trong lúc đó hầu hết tướng lãnh Mỹ thì phẫn nộ, vì nhận được lệnh đánh nhau với VC phải đạt chiến thắng nhưng hai tay họ thì bị trói chặt bởi các luật lệ.

Có thể dùng thời điểm Tổng Thống Mỹ Eisenhower gởi thư thông báo cho Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm vào tháng 10-1954 với lời hứa giúp VNCH trở thành một quốc gia mạnh, trường tồn, có khả năng chống lại mưu toan xâm lăng của Bắc Việt. . như là một cột mốc quan trong về sự nhập cuộc của Hoa Kỳ tại VN. Năm 1961 lúc Tổng Thống J. Kennedy nhậm chức, quan điểm của nước Mỹ vẫn không thay đổi về việc Bắc Việt đang xâm lăng VNCH, qua hình thức lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. . Tuy nhiên trong thành phần chính phủ Mỹ lúc đó đã có nhiều khuynh hướng, như thay thế Tổng Thống Ngô Ðình Diệm hay tăng cường viện trợ, quân sự kể cả gởi quân tới giúp VNCH chiến đấu chống lại sự xâm lăng của Hà Nội. Sự tự tin hiểu biết về tình hình VN của các tổng thống Mỹ, sau này được các nhà báo Norman Podhoretz, Theodore H. White. . mai mỉa là không nhũn nhặn mà cũng chẳng khôn ngoan chút nào, khi thật sự Hoa Thịnh Ðốn lúc đó không hiểu biết cho mấy về cái chiến trường VN nhỏ bé xa xôi tận miền Viễn Ðông, thế mà dám đề ra phương thức, chiến lược tràng giang, để giải quyết tình hình chính trị, xã hội, quân sự, kinh tế của đất nước ấy.

Ðiều này mãi tới năm 1981 mới thấy một sĩ quan cao cấp Mỹ nêu lên trong tác phẩm của mình “chiến tranh tại VN là chiến tranh du kích, đáng lẽ ngay khi nhập cuộc, quân đội Mỹ phải hiểu rõ thực chất của cuộc chiến, để có chiến thuật chống khuynh đảo, diệt du kích, mà quân đội của các nước khác đều được huấn luyện học hỏi, trước khi nhập trận. Tóm lại như Nixon đã nhận biết từ năm 1954, cộng sản dùng chiêu bài “chiến tranh giải phóng, để mà xâm nhập và khuynh đảo chính trị tại Nam VN, chứ không bao giờ công khai vượt tuyến như tại Triều Tiên năm 1950. Thêm một điểm đặc biệt khác, là lúc đầu những người trí thức và khoa bảng Mỹ gần như thờ ơ không ngó tới việc Hoa Kỳ tham chiến tại VN.

Nhưng từ giai đoạn 1967 về sau, nhất là sự kiện cộng sản bị thảm bại trong trận tổng công kích Tết Mậu Thân 1968, thì giới trên nhập cuộc qua phong trào phản chiến trên đất Mỹ, chống đối và đánh phá chính phủ dữ dội, còn hơn VC thứ thiệt ở VN cũng chưa thấy hoạt động công khai dữ dằn như phong trào phản chiến tại Mỹ. Ðây là một nghịch lý nổi bật và mai mỉa nhất của Mỹ, trong cuộc chiến VN. Ðó là sự kiện công dân Mỹ (như đào hát Jane Fonda chẳng hạn), đã công khai đứng hẳn về phía Hà Nội, cổ võ cho giặc chống lại quân đội và chính phủ mình, qua các cuộc biểu tình phản chiến, cầm cờ máu đốt cờ Mỹ, lên đài phát thanh truyền hình chửi bới hay tới tận Hà Nội để hoan hô Hồ Chí Minh.

Khi than rằng “Chúng ta đã đánh bại chính ta” , đó là nhận xét của Tổng Thống Johnson về nước Mỹ và ngay cả bản thân mình, trong suốt thời gian cầm quyền với một sức mạnh quân sự vô địch, nhưng đầu óc lại chỉ nghĩ tới chiến thắng VC bằng chính trị, một chiến lược giá rẻ, mà không một nhà lãnh đạo nào của thế giới nghĩ tới sự kỳ quặt này, nhất là khi phải đối mặt với những kẻ sát nhân khủng bố thâm độc như cộng sản quốc tế. Năm 1967 Nixon nhậm chức tổng thống, khiến ai cũng nghĩ tới nước Mỹ sẽ leo thang chiến tranh, vì ông ta là một nhân vật diều hâu có môn bài. Ông ta cũng giống như TT Kennedy và Johnson, có chung mục tiêu là cả ba đều cương quyết không muốn VNCH phải sụp đổ vì Bắc Việt xâm lăng.

Nhưng cả ba đã lầm lẫn chiến lược lúc nhập cuộc. Với TT Kennedy và Johnson, cả hai cùng chủ trương tham chiến trong giới hạn, để không gây xáo trộn tại chính quốc, nên nói ngăn chận nhưng vẫn không cản nổi sự xâm nhập của bộ đội từ bắc vào nam và sự khuynh đảo chính trị tại VNCH. Khi Nixon lên cầm quyền, cũng là lúc nước Mỹ qua vai trò của Kissinger, đang đi đêm để nhun nhén sự nối kết Mỹ-Hoa, phá thế liên hoàn Nga-Trung, trong thế cờ thời chiến tranh lạnh giữa ba nước Hoa Kỳ-Liên Xô và Trung Cộng. Bởi vậy Nixon không bao giờ dám leo thang chiến tranh tại VN, vừa phản lại lời hứa “rút quân khi ứng cử, vừa làm mất sự thân thiện với Trung Cộng lẫn Nga đang cổ võ và ủng hộ VC cưỡng chiếm miền Nam. Ðó là lý do Nixon trao lại cuộc chiến đang tiếp diễn ác liệt tại chiến trường Nam VN, cho VNCH tự lo liệu, qua danh từ hào nhoáng «Việt Nam Hóa Chiến Tranh».

Sau này qua các hồi ký chính trị của những nhân vật thân cận cao cấp của Chính Phủ VNCH như Nguyễn Tiến Hưng, Hoàng Ðức Nhã, ta mới biết được gánh nặng của các nhà lãnh đạo VNCH suốt 20 năm tồn tại, từ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm tới TT Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương. . tất cả đều bị Hoa Kỳ dùng viện trợ và sinh mệnh, để áp lực VN phải thi hành theo đường hướng của Mỹ, nhất là sự ký kết hiệp ước ngưng bắn ngày 27-1-1973. Ngoài ra những bức thơ viết tay của Tổng Thống Nixon và Ford, gửi mật cho TT. Nguyễn Văn Thiệu, với sự trang trọng cam kết, đã nói lên cái gọi là “thực chất của sự mưu tìm hòa bình trong danh dự và trên hết đã phần nào lột trần hai nhân vật “Nixon-Kissinger”, trong vai trò chủ động tháo chạy khỏi Miền Nam, để khỏi bị sa lầy.

Không được đáp ứng theo nhu cầu đòi hỏi, TT J. Kennedy đạo diễn tấn tuồng binh biến ngày 1-11-1963 hạ sát TT hợp pháp của VNCH là Ngô Ðình Diệm, để gây xáo trộn chính trị suốt ba năm, rồi kết luận miền Nam thiếu lãnh đạo. TT Nixon và cố vấn an ninh quốc gia Kissinger, dùng đủ mọi thủ đoạn, kể cả hành động đê tiện là đe doạ ám sát TT Nguyễn Văn Thiệu, để hoàn thành cho được bản hiệp ước ngưng bắn Paris 1973, mới có cớ hợp thức cho phép bộ đội miền Bắc có mặt tại miền Nam. Nói là “Việt Nam Hóa Chiến Tranh” nhưng lại cắt viện trợ, ngưng cung cấp quân trang dụng như lời hứa, khiến cho QLVNCH lâm vào tình trạng kiệt quệ, phải bỏ nhiều phần lãnh thổ vì không có phương tiện để phòng thủ.

Rồi trong lúc Bắc Việt xua hết lực lượng, tấn công cưỡng chiếm VNCH, thì người Mỹ tháo chạy trong danh dự, suốt đêm trên nóc nhà bằng trực thăng, qua sự đùm bọc bảo vệ an ninh của QLVNCH lúc đó.

Cuối cùng từ ấy đến nay, vẫn không ngớt đổ tội cho QLVNCH là không chịu chiến đấu, nên quân đội Mỹ phải sa lầy và Miền Nammới bị sụp đổ.

Nhưng giấy làm sao gói được lửa và chắc là bị lương tâm cắn rứt dầy vò chịu không nổi, nên cựu ngoại trưởng Henry Kissinger, trong cuộc hội thảo tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày 29-9-2010 đã tự thú «Sự thảm bại tại VN vào ngày 30-4-1975 là do Hoa Kỳ gây nên, chứ không phải VNCH».

Lời phát biểu trên của Kissinger, tuy quá muộn màng vì thời gian dài hơn 1/3 thế kỷ nhưng có còn hơn không, vì ít ra ông cũng còn đủ can đảm đứng ra gián tiếp thay mặt cho nước Mỹ để trả lại sự công bằng và danh dự cho QLVNCH.

Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di

Tháng Tư Đen Quốc Hận 2012

Mường Giang



Chính trị − Văn hóa − Xã hội
Share:

Thứ Ba, 29 tháng 5, 2018

Tại sao CSVN thua kiện trong vụ kiện chất độc màu da cam



Tại sao CSVN thua kiện trong vụ kiện chất độc màu da cam
Ls Lê Đức Minh FB

Vừa ngu vừa gian, vừa đạo đức giả

Nếu cuộc chiến tranh Việt Nam có để lại những gì đau xót nhất cho cả bên thua lẫn bên thắng cuộc, thì đó là hậu quả lâu dài của chất độc màu da cam (Agent Orange) mà quân đội Hoa Kỳ đã dùng như một loại thuốc khai quang. Thuốc khai quang này được dùng để diệt cây cối trong những khu vực chiến sự, nhằm làm Việt Cộng không còn chỗ kín để thiết lập chiến khu hay xây dựng những căn cứ quân sự trong chiến tranh Việt Nam.

Bài liên quan: Chất độc màu da cam màu gì? Vì sao VN thua kiện chất độc màu da cam?

Nhà cầm quyền Hà Nội cho rằng có khoảng 3 triệu nạn nhân chất độc da cam tại Việt Nam khi tiến hành «Vụ kiện hậu quả chất độc màu da cam trong Chiến tranh Việt Nam» đối với 37 công ty sản xuất hóa chất của Hoa Kỳ, nhưng không thể cung cấp nổi một test xét nghiệm chứng minh có đúng một nạn nhân do chất độc da cam/dioxin mà Tòa án Mỹ yêu cầu.

6 đoàn nạn nhân chất độc da cam/dioxin ở Việt Nam và các nhà lãnh đạo Hội nạn nhân chất độc da cam/dioxin (VAVA) đã đến và đi khắp nước Mỹ để gặp gỡ nhân dân Mỹ bày tỏ những khổ đau mà nạn nhân Việt Nam phải chịu đựng gần 4 thập niên qua. Hoạt động của các đoàn nạn nhân này và các nhà lãnh đạo VAVA đã được nhiều phương tiện truyền thông ở Mỹ thông tin rộng rãi.

Tòa án Tối cao Mỹ bác đơn thỉnh cầu của nguyên đơn vào ngày 2 tháng 3 năm 2009 vì nguyên đơn Việt Nam đã không chứng minh được chính chất độc da cam đã gây ra các loại bệnh tật như liệt kê trong đơn kiện của họ, vì cho đến thời điểm đệ đơn kiện, họ vẫn thiếu các nghiên cứu sâu rộng về ảnh hưởng của chất làm phát quang cây cối có tác động xấu đối với sức khỏe con người.

Phó chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam Vũ Trọng Kim cho là «Việc tòa án Mỹ từ chối lời thỉnh cầu của các nạn nhân Việt Nam là đã bỏ lỡ cơ hội thể hiện sự công minh của pháp luật và tinh thần yêu chuộng công lý, tôn trọng nhân quyền của nhân dân Mỹ».

Phát huy hiệu quả tuyên truyền trong nước.

Dĩ nhiên đây có thể được coi là một tội ác chiến tranh, cho dù chính phủ, quân đội hay công ty sản xuất tại Hoa Kỳ vào thời điểm đó có thể không lường hết được những di chứng do loại hóa chất độc hại này tác động lên sức khỏe con người. Bởi vì nạn nhân của loại hóa chất này bao gồm cả binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa, binh sĩ Hoa Kỳ, binh sĩ Việt Cộng và gia đình của họ.

Cho nên đứng về nguyên tắc tất cả những nạn nhân của loại hóa chất này có quyền đệ đơn kiện và đòi bồi thường.

Tuy nhiên khi nói đến việc kiện, các nạn nhân, kể cả từ hai bên của cuộc chiến, phải xác định là họ sẽ kiện ai đây. Câu hỏi này khi hỏi những người dân Việt Nambình thường nhất, họ cũng sẽ trả lời ngay là kiện chính phủ Hoa Kỳ. Chứ kiện ai nữa? Chính phủ Hoa Kỳ ra lệnh cho quân đội Hoa Kỳ sang tham chiến tại Việt Nam. Quân đội Hoa Kỳ đặt hàng chất độc này từ các công ty hóa chất của Hoa Kỳ và quân đội Hoa Kỳ sử dụng nó trên chiến trường Việt Nam. Cả ba đối tượng này đều có thể trở thành những bị đơn trong đơn kiện của Việt Nam.

Theo luật của Hoa Kỳ, Việt Nam có thể kiện cả chính phủ, cả quân đội lẫn các công ty cung cấp hóa chất. Những cáo buộc mà phía Việt Nam có thể nêu ra bao gồm tội ác chiến tranh, tội diệt chủng và những tội danh khác. Tòa án Hoa Kỳ độc lập với hành pháp và các thẩm phán của Tối Cao Pháp Viện có quyền tuyên án chính phủ, quân đội Hoa Kỳ hay các công ty Hoa Kỳ phạm tội ác chiến tranh chống nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến Việt Nam.

Tuy nhiên lý do thứ nhất làm Việt Nam thất bại trong vụ kiện hy hữu này là vì Việt Namđã chọn sai bị đơn. Thay vì chọn kiện cả ba thì Việt Nam chỉ chọn kiện các công ty sản xuất hóa chất của Hoa Kỳ.

Việc chọn bị đơn sai lầm này có thể được giải thích bởi nhiều lý do. Thứ nhất Việt Namđã chọn nhầm những luật sư Hoa Kỳ để đại diện cho Việt Nam. Loại bỏ đi thuyết âm mưu, có thể các luật sư mà Việt Nam chọn không phải là những luật sư giỏi vì họ đã quên đi rằng trong lịch sử kiện tụng tại Hoa Kỳ, căn cứ vào những án lệ trước đó, các công ty sản xuất hóa chất đều được miễn truy cứu trách nhiệm một khi họ được yêu cầu cung cấp các sản phẩm đúng theo đơn đặt hàng của chính phủ và quân đội. Chỉ với yếu tố này đơn kiện có thể bị tòa án Hoa Kỳ vứt vào sọt rác ngay lập tức.

Thứ hai do không hiểu biết về luật pháp Hoa Kỳ và Công Pháp Quốc Tế, Việt Namđã nghe theo lời tư vấn tầm bậy của đủ loại chuyên gia hầm bà lằng. Các chuyên gia này đã có thể tư vấn rằng Việt Nam không nên kiện chính phủ vì làm như thế sẽ rất bất lợi. Trái lại Việt Nam nên kiện các công ty để khỏi làm chính phủ Hoa Kỳ mất mặt và vì thế sau này nếu không may có thua các công ty sản xuất hóa chất thì còn cơ may nhận được lòng thương hại của chính phủ Hoa Kỳ và vì thế sẽ nhận được viện trợ nhân đạo. Cái này cũng có thể xuất phát từ sự tính toán có tính chất trục lợi của chính quyền Việt Nam chứ không phải xuất phát từ mục đích đi tìm công lý cho các nạn nhân của chất độc màu da cam.

Khởi đầu vụ kiện Việt Nam đã có lợi thế áp đảo. Chánh án tòa liên bang New York là chánh án Weinstein đã tuyên bố rằng ông sẽ bỏ qua các án lệ có liên quan đến các công ty sản xuất hóa chất, và nếu Việt Nam chứng minh được tội ác vi phạm nhân quyền ở nước ngoài của các công ty này, ông sẽ không khoan nhượng với các công ty sản xuất hóa chất Hoa Kỳ. Do đó nếu Việt Nam chứng minh rằng chất độc da cam là nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng không thể chối cãi được của những tổn hại về tinh thần, sức khỏe của các nạn nhân, thì các công ty sản xuất hóa chất của Hoa Kỳ thua là cái chắc.

Cái chuyện có thể xem như dễ như nằm trong lòng bàn tay, vì rõ ràng chất độc da cam là hậu quả trực tiếp có thể thấy được (?), thì Việt Namlà đám luật sư trong nước lẫn ngoài nước mà họ thuê đã không làm được trò trống gì.

Từ chỗ thấy được hậu quả của chất độc da cam, Việt Nam phải đi đến được việc chứng minh sự liên hệ đó bằng các luận chứng khoa học, chứ không phải chỉ mang đến tòa một số chuyên gia vớ vẩn của họ và một số nạn nhân với ngoại hình kinh khủng do chất độc da cam gây quái thai. Tòa án không phải là nơi để bày tỏ cảm tính, là nơi kêu gọi lòng nhân đạo. Đó là nơi Việt Nam phải chứng minh rằng họ hiểu vấn đề, nắm vững vấn đề và chứng minh được những gì mà họ muốn tòa nghe và hiểu bằng những lý luận có cơ sở không thể chối cãi được.

Điểm mấu chốt cần phải chứng minh là chất dioxin, một chất phụ gia có trong chất độc da cam, là nguyên nhân của mọi thảm họa. Trong khi đó thực tế dioxin trong chất da cam theo số liệu khoa học của tòa thì chỉ ở một nồng độ rất thấp, vì chất da cam trên thực tế là chất diệt cỏ chứ không phải chất độc dùng để giết người!

Thay vì đưa ra những số liệu thống kê chính xác về khu vực bị thuốc khai quang, số người cụ thể bị ảnh hưởng, con số nạn nhân cụ thể đã được xét nghiệm và chẩn đoán đàng hoàng thì phía Việt Nam chỉ đưa ra tòa chừng 20-30 những nạn nhân… đến từ miền Bắc là nơi Hoa Kỳ không có rãi chất da cam. Trong số nạn nhân chỉ có bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (cựu bộ trưởng y tế) là người miền Namtừng có mặt trong những vùng bị rãi chất độc da cam.

Chánh án Weinstein cho biết ông không cần tất cả các nạn nhân đều phải là người miền Nammà chỉ là người Bắc vào Namchiến đấu rồi về lại cũng được. Tuy nhiên tất cả đều phải chứng minh khoa học và phải có bằng chứng về những bản đồ ghi lại lộ trình của các chuyến bay rãi chất độc da cam. Tuy nhiên Việt Nam và các luật sư của mình đã không đáp ứng được những yêu cầu của chánh án Weinstein trong toàn bộ vụ kiện và họ đã không chứng minh được có sự liên quan cụ thể nào giữa chất độc dioxin trong chất da cam và những biến dạng sinh học trên những nạn nhân của chất độc da cam.

Nhưng nghiêm trọng nhất là cũng là lý do chính khiến Việt Nam thua kiện là vì sự gian dối của phía Việt Namtrong khi tiến hành vụ kiện. Việt Nam có câu «Vô phước đáo tụng đình» nhưng vô phước hơn hết là đáo tụng đình với một đám nhân chứng giả hiệu, được mớm cung bằng những lời khai ngu ngốc do bọn chuyên gia ngu dốt soạn ra.

Tòa án thấy ngay rằng các chuyên gia và nhân chứng từ Việt Namđều là những người mà lời khai của họ không có độ khả tín tí nào cả. Ví dụ một anh Việt cộng Namtiến và một anh du kích Bến Tre ra trước tòa khai rằng chất độc da cam màu vàng chóe vì mỗi lần máy bay Mỹ rãi chất độc làm trời đất đều biến thành màu da cam (?).

Thật ra chất khai quang đó có màu trắng như bột mì. Nhưng theo quy định về chất độc thì những hóa chất khai quang này phải được đựng trong những thùng màu vàng để dễ nhận diện chất độc.

Đã thế đoàn chuyên gia Việt Nam còn có sự hiện diện của ba con mụ Việt Cộng đó là giáo sư tiến sĩ Phan Thị Phi Phi của đại học y khoa Hà Nội, bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phương của bệnh viện Từ Dũ và bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, cựu bộ trưởng của chính phủ lâm thời cách mạng cộng hòa miền Nam Việt Nam. Bà Dương Quỳnh Hoa còn hùng hồn khai trước tòa rằng lúc ở chiến khu bà còn tận mắt thấy một thùng chất độc da cam rớt xuống tung bột vàng chóe khiến ai đi qua cũng phải lấy khăn che miệng. Sau đó bà ta đưa ra những hình ảnh quái thai của trẻ em Việt Namđể chứng minh đó là hậu quả trực tiếp của chất độc da cam.

Các công ty hóa chất Mỹ bắt đầu ra đòn. Họ chiếu cho tòa xem quy trình phun chất da cam. Tới đó đám bác sĩ chuyên gia và nạn nhân Việt Nammới hởi ôi. Té ra chất da cam có màu trắng và máy bay không phải rãi bột mà họ rãi một dung dịch bột đã pha với dầu hỏa, chứ không mang cái thùng da cam nào lên máy bay cả. Chưa hết các công ty này cung cấp cho tòa thấy là quân đội Mỹ không rãi chất da cam tại vùng Bến Tre, là nơi anh du kích vớ vẫn sống, vì nơi đó là vùng dân cư đông đúc. Đám chuyên gia và nhân chứng của Việt Nam đứng như những con vịt đực trước tòa không nói được câu nào. Có biết gì đâu mà nói? Toàn một lũ thấm nhuần tuyên truyền của đảng. Nghe đảng nói sao cứ lập lại y như vẹt mà thôi!

Sau năm 1975, Việt Nam có làm một cuốn phim có tựa đề Như Thế Là Tội Ác do Thương Tín đóng. Trong đó cho đồng bào thấy rõ ràng là chất độc da cam được chứa trong những bao vải màu trắng hệt như bột mì trong kho. Đây không phải là ngu thì không biết gọi là gì cho nó thích hợp?

Chưa hết một anh Việt Cộng Nam tiến lên hầu tòa. Anh ta khai được lệnh từ miền Bắc xâm nhập vào Nam chiến đấu. Luật sư của bên bị đơn liền mang hiệp định Paris ra để chứng minh rằng anh cán binh Việt Cộng xâm nhập miền Nam bất hợp pháp do đó nếu có chết hay tàn phế vì bất cứ lý do nào thì phải chịu chứ không kêu ai được.

Trong các hình ảnh của nạn nhân, các chuyên gia của bị đơn chứng minh rằng có cả những trẻ em sinh ra dị tật vì trong quá trình thai nghén không hề được cho uống Acid Folic. Tòa hỏi bà bác sĩ Phượng rằng trong cuộc đời hành nghề của bà, bà có kê đơn cho phụ nữ Việt Nam Acid Folic trong giai đoạn thai nghén không. Bà này quay tới quay lui như gà mắc đẻ. Không biết bà ta có biết Acid Folic là cái thứ chi chi không?

Cựu binh Mỹ đến Đà Nẵng năm 2009 «ủng hộ» các nạn nhân chất độc da cam/dioxin.

Thế là hết! Toàn bộ đám chuyên gia nhân chứng lộ mặt là một lũ ngu, một đám ăn gian nói dối. Rõ ràng Việt Nam khởi tố vụ kiện là vì mơ màng một khoản tiền bồi thường hay viện trợ nhân đạo để chia nhau bỏ túi chứ đâu có phải vì công lý cho những nạn nhân của chất độc da cam đâu.

Tài liệu tham khảo:

Brian Leung, Vietnam, Agent Orange, and GMOs, The Diplomat, 24/11/2014
Tạ Văn Tài, Vụ kiện dioxin: Có thắng được không?, BBC Online
Thông Nguyễn, Vì sao VN thua vụ kiện chất độc màu da cam, Báo Tổ Quốc Online, 11/2014



Chính trị − Văn hóa − Xã hội
Share: