Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2018

Điều cốt yếu nhất trong việc sống đạo của người Kitô hữu


Điều cốt yếu nhất trong việc sống đạo 
của người Kitô hữu
Cần hiểu điều cốt yếu nhất của Kitô giáo là gì để thi hành
Mt 7, 21-23 => «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầylà Ðấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!»
________________________
Ngày phán xét, nhiều người tưởng mình sẽ là người ưu tiên được Chúa xếp vào hàng những người công chính để được thưởng, nhưng không ngờ họ bị xếp vào hạng không công chính, vì những gì họ tưởng là việc đạo đức mà họ đã làm suốt cả cuộc đời, đều không phải là điều chính yếu Chúa muốn họ làm. Cả đời họ, họ không biết được điều quan trọng nhất mà họ phải làm để trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa là gì, và họ cũng không biết được điều Ngài muốn họ thi hành là điều gì, vì họ không hề đọc những gì Chúa nói, mà chỉ nghe người này dạy, người kia bảo phải làm thế này thế kia.
Tương tự như trong việc làm ruộng, điều quan trọng nhất là phải có hạt giống lúa, rồi mới tới việc dẫn nước, bón phân, làm cỏ, v.v... Nếu họ không biết điều quan trọng nhất phải làm là gieo hạt giống xuống ruộng, mà chỉ chăm làm những việc sau, thì tất cả những việc sau dù có làm hoàn chỉnh cách mấy cũng trở thành vô ích hoàn toàn. Đương nhiên những việc sau cũng cần phải làm mới có được lúa, không làm những việc sau thì cũng thất bại.)


Điều cốt yếu nhất của Kitô giáo 
(= điều quan trọng nhất Thiên Chúa muốn con người thi hành) 
là tình yêu của họ dành cho tha nhân

Yêu thương tha nhân là điều luật quan trọng nhất
● Ga 13,34 => «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em»
● Ga 15,12 => «Ðây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em».
● Lc 6,31 => «Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy».
● Rm 13,8 => «Ai yêu người, thì đã chu toànLề Luật».
● Rm 13,10 => «Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại ; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy».
● Gc 2,8 => «Luật Kinh Thánh đưa lên hàng đầu: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình».
● Gl 5,14 => «Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhấtnày là : Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình».
● Lc 10,29-37 => Dụ ngôn người Samari tốt lành (Đức Giêsu định nghĩa «người thân cận» của ta là người khốn khổ mà ta gặp trong cuộc đời cần được ta cứu giúp hay nâng đỡ.)
● 2Cr 2,8 => «Tôi khuyên anh em hãy đặt tình bác ái lên trên hết».

Tình yêu quan trọng hơn cả đức tin
● 1Cr 13,1-3 => Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.
________________________ 
Những việc tốt lành dù có lớn lao tới đâu, nhưng không xuất phát từ cái tâm yêu thương, mà chỉ nhắm để được mọi người khen là đạo đức, thánh thiện, hay vì một động lực vị kỷ nào khác... thì cũng đều không có giá trị thật sự trước mặt Thiên Chúa.
● 1Cr 13,13 => «Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cảlà đức mến»

Tin và yêu đích thực phải có hành động phù hợp
● Gc 2,17-20 => «Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: “Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin. Bạn tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất. Bạn làm phải. Cả ma quỷ cũng tin như thế, và chúng run sợ.” Hỡi người đầu óc rỗng tuếch, bạn có muốn biết rằng đức tin không có hành động là vô dụngkhông?»
● Gc 2,14-16 => «Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?»
● Gc 2,24 => «Anh em thấy đó, nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi
● Gc 2,26 => Thật thế, một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.
(Có thể thay thếhai chữ “đức tin” trong các câu trên bằng hai chữ “đức ái”, hay “tình yêu”)

Yêu thương tha nhân là dấu chỉ của người Kitô hữu
● Ga 13,34-35 => «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau».
Diễn tả cách khác: «Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau» (bài ca của Kim Long).

Ba điều quan trọng nhất trong lề luật
● Mt 23,23 => «Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luậtcông bình, lòng nhân và thành thật. Phải làm các điều này mà không được bỏ các điều kia».
● Mt 5,37 => «Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ».

Yêu tha nhân là yêu chính Thiên Chúa
● Mt 25,34/41.40/45 => «Bấy giờ (=ngày phán xét), Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải (/bên trái) rằng: Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm (/không làm) như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm (/không làm) cho chính Tavậy».
● Mc 10,17-21 => Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: «Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?» Đức Giêsu đáp: «Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ». Anh ta nói: «Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ». Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: «Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi».
(Điều rất lạ là để được sự sống đời đời, Đức Giêsu không nói gì đến việc phải chu toàn những bổn phận đối với Thiên Chúa (lạ thật!), vì dường như đối với Ngài, yêu và phục vụ tha nhân cũng chính là yêu và phục vụ Thiên Chúa rồi. Ngài chuyên đồng hóa tha nhân của ta với chính Ngài!)
(Kinh Hòa Bìnhcủa thánh Phanxicô Khó Khăn: «Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người». Nhưng dường như chúng ta chỉ biết phụng sự Chúa… trong nhà thờ, chứ không phải trong mọi người).

Thiên Chúa ở với những ai yêu thương tha nhân
● 1Ga 4,16 => «Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó. Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy».
● 1Ga 4,8 => Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.

Điều kiện để theo Chúa, để yêu thương tha nhân
● Mt 16, 24 => «Ðức Giêsu nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”».
● Mt 10,38 => «Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứngvới Thầy».

Tình yêu quan trọng hơn các nghi thức tôn giáo
● Mt 12,7 => «Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế».
● Mt 5,23-24 => «Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình».
● Is 1,10-17 => «Hỡi những kẻ làm đầu Xơ-đôm, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA phán. Hỡi dân Gô-mô-ra, hãy lắng tai nghe Thiên Chúa chúng ta dạy bảo. ĐỨC CHÚA phán: Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta, nào nghĩa gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên dê, Ta chẳng thèm! Khi các ngươi đến trình diện Ta, ai khiến các ngươi phải giẫm lên khuôn viên của Ta? Thôi, đừng đem những lễ vật ích đến nữa. Ta ghê tởmkhói hương; Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sa-bát, ngày đại hội, không chịu nổinhững người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình. Ta chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. tay các ngươi đầy những máu. Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho nhi, biện hộ cho quả phụ
Nguyễn Chính Kết

Share:

TN30 - Sứ mạng giải phóng của những người theo Chúa




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 30 Thường Niên

(28-10-2018)


Sứ mạng giải phóng
của những người theo Chúa



ĐỌC LỜI CHÚA

  Gr 31,7-9: (8) Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về. (9) Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã, vì Ta là một người Cha.

  Dt 5,1-6: (2) Vị thượng tế ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối.

  TIN MỪNG: Mc 10,46-52

Người mù ở Giêrikhô

(46) Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê. (47) Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: «Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!» (48) Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: «Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!» (49) Đức Giêsu đứng lại và nói: «Gọi anh ta lại đây!» Người ta gọi anh mù và bảo: «Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!» (50) Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. (51) Người hỏi: «Anh muốn tôi làm gì cho anh?» Anh mù đáp: «Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được». (52) Người nói: «Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!» Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.




CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1. Thái độ của người mù trong bài Tin Mừng là la to lên để Đức Giêsu nghe thấy, và khi bị quát nạt, anh lại càng la to hơn nữa. Đó có phải là thái độ khôn ngoan không? Những kẻ cùng khốn có thể rút ra bài học gì không? 
2. Cảnh người mù kêu cứu mà bị quát nạt có gì tương tự với những cảnh đang xảy ra trong xã hội hôm nay không? Tại sao lại có người quát nạt anh? quát nạt anh để làm gì? 
3. Những người theo Đức Giêsu cần có thái độ nào trước cảnh người cùng khốn kêu cứu mà bị quát nạt? Im lặng mặc kệ họ hay kêu cứu dùm họ?


Suy tư gợi ý:

1.  Người mù lên tiếng kêu cứu và bị quát nạt

Trên trần gian này, có biết bao người cùng khổ như anh chàng Batimê trong bài Tin Mừng trên. Anh bị mù, không làm được việc gì để sinh sống, nên đành phải đi ăn xin. Đời anh thật khốn khổ, nên khi nghe tin Đức Giêsu –người nổi tiếng chữa lành bằng phép lạ– sắp đi qua, anh kêu to lên xin Ngài cứu chữa. Đó quả là nhu cầu vô cùng chính đáng của anh. 

Nhưng những người Pharisêu –những kẻ không muốn Đức Giêsu có ảnh hưởng trong xã hội vì lời giảng dạy và những phép lạ của Ngài– đã dọa nạt anh, bịt miệng anh để anh im đi. Họ sợ Ngài có thêm cơ hội làm phép lạ khiến Ngài nổi tiếng và có ảnh hưởng trên dân chúng nhiều hơn. Họ muốn độc quyền ảnh hưởng trên dân chúng. Đáng lẽ anh mù phải sợ những người Pharisêu này, vì họ có quyền thế về tôn giáo. Họ có thể «dứt phép thông công» anh (nói theo kiểu hiện đại cho dễ hiểu), khiến anh bị cô lập giữa những người đồng đạo, và đời anh đã khốn khổ sẽ vì thế lại càng khốn khổ hơn. 

Nhưng sự cùng khốn của anh khiến anh không còn sợ gì nữa, anh quyết tranh đấu cho nhu cầu chính đáng của mình. Vì thế, anh càng la to hơn để Đức Giêsu nghe thấy. Nhờ kiên quyết tranh đấu, anh đã toàn thắng kẻ cố tình bịt miệng anh: Đức Giêsu nghe thấy tiếng anh kêu, đã đến với anh và chữa lành bệnh cho anh. Anh đã «nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi» (Mc 10,52b)



2.  Những người cùng khốn đang bị áp bức, bị bịt miệng, bịt tai

Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một cách thu gọn cảnh áp bức bất công vẫn thường xảy ra trong xã hội. Những người nghèo khổ, thấp cổ bé họng, không có tiếng nói như anh Batimê luôn luôn phải chịu cảnh áp bức: bị bịt miệng không cho phát biểu, bị bịt mắt không cho thấy, bị bịt tai không cho nghe những diễn biến đang xảy ra trong xã hội. Vì càng để họ ở trong cảnh dốt nát mù mịt thì kẻ nắm quyền càng dễ bề áp bức, hà hiếp, bóc lột họ. Để họ biết nhiều quá, nắm thông tin nhiều quá, nhất là để họ biết được quyền lợi của họ, hay biết được những thối nát, ngu xuẩn, bất công của những kẻ đang cầm quyền, thì khó mà duy trì ách thống trị trên họ mãi.

Vì thế, tất cả những kẻ cầm quyền áp bức trên thế gian này, trong môi trường đời thường cũng như trong môi trường tôn giáo, đều muốn bưng bít thông tin, trấn áp dư luận, tìm cách bịt miệng tất cả những ai muốn nói, bịt tai tất cả những ai muốn nghe. Họ chỉ cho phép những gia nô của họ bốc thơm họ, bất chấp những tồi tệ ngu xuẩn của họ. Họ chỉ cho phép đám dân ngu cu đen nghe những lời tán tụng giả dối ấy, để đám dân này ảo tưởng rằng mình đang được sống trên thiên đàng, và coi bọn cầm quyền là ân nhân của họ. 

Trong bài Tin Mừng, nếu anh mù Batimê mà sợ oai sợ vía bọn Pharisêu nên im lặng trước sự quát nạt của họ, thì rất có thể anh sẽ không gặp được Đức Giêsu, anh sẽ không được chữa lành, và anh sẽ phải sống trong tăm tối suốt cả cuộc đời. Nhưng anh đã can đảm không sợ hãi, và sự can đảm ấy đã giải phóng anh! Sự can đảm ấy đã được Đức Giêsu chúc lành.

Anh đáng làm gương cho chúng ta về lòng can đảm, về tinh thần tranh đấu cho nhu cầu và quyền lợi chính đáng của mình. Những kẻ nhát sợ trước bạo lực, không dám lên tiếng tranh đấu cho quyền lợi chính đáng của mình, đành chấp nhận làm thân giun dế, thật đáng xấu hổ trước tấm gương can đảm này. 



3.  Những người theo Đức Giêsu, niềm hy vọng của những nạn nhân thời đại?

Trên khắp thế giới hiện nay, nhất là trong những quốc gia bị cai trị bởi những chế độ độc tài như Việt Nam, có biết bao người khốn khổ, nghèo đói, bị những kẻ quyền thế đàn áp bất công, cướp đất cướp nhà, bị họ chà đạp quyền sống, quyền phát triển... Họ nghe nói về một Kitô giáo chủ trương giải phóng những người bị áp bức như họ, vì Đức Giêsu, người sáng lập Kitô giáo đã nói về sứ mạng của những người theo Ngài: «Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để  tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa» (Mt 4,18-19). Kitô giáo vì thế trở thành niềm hy vọng cho họ, những kẻ đau khổ, bệnh tật, bị giam cầm, bị áp bức bất công.

Theo tinh thần câu Kinh thánh trên, những người nhận được Thần Khí, được Thiên Chúa xức dầu, là những người đặc biệt không chỉ quan tâm đến người nghèo, người bị giam cầm, người bị mù, bị áp bức… mà còn được sai đi để «công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa» (nt), nghĩa là để lên tiếng bênh vực cho quyền lợi và quyền tự do của họ. 



4.  Các ngôn sứ hãy lên tiếng thay cho kẻ không có tiếng nói

Cái cảnh quát nạt không cho người mù lên tiếng như trong bài Tin Mừng hôm nay vẫn đang hằng ngày xảy ra trong xã hội con người. Nhưng có biết bao người khốn khổ, bị hà hiếp, đàn áp như thế không có khả năng hay dũng khí để gào to lên như anh mù trong bài Tin Mừng. Họ sợ bị ám hại, họ có miệng nhưng không dám kêu, hoặc không biết kêu với ai… Tội nghiệp những con người ấy biết bao! Ai sẽ lên tiếng thay cho họ?

Thật may mắn cho họ, Đức Giêsu đã đến với sứ mạng «loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn (…) trả lại tự do cho người bị áp bức» (Lc 4,18). Ngài có cả một đạo quân tiếp nối sứ mạng của Ngài, đạo quân của những người tận hiến đời mình để theo Ngài. Sứ mạng của họ được sách Châm Ngôn mô tả: «Con hãy mở miệng nói thay cho người câm, và biện hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở miệng xét xử thật công minh, biện hộ cho những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Cn 31,8-9)Isaia cũng mô tả sứ mạng của họ: «Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ» (Is 1,17)

Giữa xã hội, hiện đang có cả một đạo quân hùng hậu gồm những người mang danh theo Đức Giêsu, thường tự hào mình tiếp nối sứ mạng của Ngài, tự hào mình là ngôn sứ, khiến những kẻ cùng khốn trong xã hội đặt biết bao hy vọng nơi họ. Nhưng tiếc thay, nhiều khi đạo quân đông đảo này lại sẵn sàng cùng nhau câm lặng trước những cảnh áp bức, đau thương, những cảnh ngang trái đầy bất công của xã hội… 

Ôi, phải chi những người ấy đừng vỗ ngực xưng tên mình là môn đệ Đức Giêsu, là người theo Ngài, là ngôn sứ của Ngài thì chẳng ai phiền trách họ về sự câm lặng ấy! Và chẳng ai thèm hy vọng nơi họ để khỏi phải thất vọng! Xưng mình là ngôn sứ mà chẳng làm công việc của ngôn sứ thì còn chính danh gì nữa? còn chân thật gì nữa? Thiên Chúa sẽ xét xử ra sao những người đang vui hưởng vinh quang của các ngôn sứ, nhưng lại muốn trốn tránh sứ vụ ngôn sứ? 



5.  Thái độ của người Pharisêu

Bọn Pharisêu trong bài Tin Mừng không muốn anh Batimê la to lên để Đức Giêsu nghe thấy mà chữa lành cho anh. Đối với họ, cảnh mù lòa xin ăn, sự khốn cùng của anh chẳng có gì đáng để họ bận tâm. Lòng họ đã ra chai đá rồi! Họ không muốn anh được chữa lành, khi mà việc ấy không thuận lợi cho sự độc quyền ảnh hưởng của họ trên dân chúng. Họ sợ bị mất ảnh hưởng hơn sợ dân chúng phải đau khổ. Vì thế, họ muốn bịt miệng anh, không muốn anh nói lên sự cùng quẫn của anh.

Là những người lãnh đạo tinh thần trong dân chúng, đúng ra họ phải lên tiếng nói thay cho dân, nhất là cho những kẻ đang bị cùng quẫn vì áp bức. Đằng này họ lại muốn bịt miệng người dân lại khi người dân lên tiếng. Là lãnh đạo tinh thần, đúng ra họ phải đặt quyền lợi người dân lên trên quyền lợi của họ. Đằng này, họ lại đặt quyền lợi của họ trên quyền lợi của dân.

Thấy thái độ của họ đối với dân chúng như vậy, Đức Giêsu đã dùng hình ảnh «kẻ chăn thuê» để nói về họ: «Kẻ chăn thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên» (Ga 10,12-13).

Ước gì những người lãnh đạo tinh thần thời nay không giống như các Pharisêu xưa, mà giống như Đức Giêsu, để vị nào cũng có thể nói được như Ngài: «Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên» (Ga 10,11). Amen. 




CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, cảnh người mù kêu cứu bị quát nạt vẫn hằng xảy ra trong thế giới hôm nay. Là những người theo Đức Giêsu, nhưng chúng con chẳng muốn làm theo Ngài. Chúng con chẳng muốn quan tâm tới những người nghèo khổ, những kẻ bị áp bức bất công như Ngài vẫn luôn quan tâm. Chúng con chỉ thích bắt chước những người Pharisêu, đặc biệt quan tâm tới những nghi thức tôn giáo, những hình thức đạo đức bên ngoài, những luật lệ… Có phải chúng con thiếu đức tin và nghèo tình thương không? Xin Cha đừng để chúng con ảo tưởng mình đầy đủ đức tin chỉ vì chúng con đang làm thầy dạy về đức tin, vì chúng con tuyên xưng đức tin một cách thật hùng hồn, vì chúng con thường kết án những kẻ tin khác chúng con; hay chúng con tưởng mình giàu tình thương chỉ vì chúng con đang rao giảng về đức ái, khuyên lơn mọi người hãy yêu thương nhau. Sự sợ hãi hằng trấn áp chúng con chứng tỏ đức tin của chúng con còn rất yếu kém. Sự lãnh đạm với những người nghèo khổ chứng tỏ tình thương của chúng con còn rất nghèo nàn. Lạy Cha, xin thêm đức tin và tình thương cho chúng con.


Share:

Thứ Năm, 25 tháng 10, 2018

Cuộc Đấu Tranh Này



Cuộc Đấu Tranh Này

Trần Trung Đạo
(Đặc San Lâm Viên)


«Đừng tự nguyện thực thi chính sách phân hóa kẻ thù giùm cho đảng CS. Đừng để lòng yêu nước bị CS khai thác như CS đã từng làm khi đẩy nhiều triệu tuổi trẻ miền Bắc vào lò lửa chiến tranh và dụ dỗ nhiều tuổi trẻ miền Nam trở thành những tay sai cho đảng lũng đoạn xã hội miền Nam trước năm 1975.»

Một câu hỏi mà người viết thường được hỏi và cũng thường được nghe tranh luận là «Việt Nam có nhiều trăm tù nhân lương tâm bị CS bỏ tù với những bản ác khắc nghiệt nhưng tại sao nỗ lực của người Việt, trong cũng như ngoài nước, chỉ tập trung vận động cho một vài người?»

Câu hỏi đúng về mặt tình cảm nhưng có lẽ nên phân tích sâu thêm về lý luận. Cuộc đấu tranh nào cũng thế, có những người tranh đấu, có phong trào tranh đấu nhưng trên hết phải có biểu tượng của cuộc đấu tranh.




Việt Nam có một phong trào dân chủ chưa?

Định nghĩa một cách tổng quát, phong trào là tập hợp của những người cùng chia sẻ một niềm tin, một ước muốn, một mục tiêu nhất định nối kết nhau bằng tình cảm và sự tin cậy. Đặc điểm để hình thành một phong trào xã hội là các thành viên tham gia sở hữu những nhận thức căn bản về những bất công xã hội họ đang chứng kiến, có khả năng hành động tập thể, có không gian thông tin, có cơ hội bày tỏ quan điểm.

Bốn mươi ba năm trước, Việt Nam chìm sâu trong bóng tối của chủ nghĩa CS. Không có không gian và thời gian như dừng lại. Nhưng ngày nay điều kiện thế giới và cuộc cách mạng tin học đã ít nhiều làm thay đổi nhận thức nhiều người Việt. Tuy chưa đủ lớn mạnh như tại các nước độc tài CS trước 1991 hay độc tài không CS như Miến Điện, Ai Cập nhưng qua định nghĩa rộng đó, Việt Nam đã có phong trào dân chủ.

Biểu tượng của phong trào thường là một hay một số người có những hoạt động nổi bật, gây được tiếng vang quốc tế, được nhiều người biết đến và thu phục được cảm tình của các thành viên trong phong trào.

Nelson Mandela không phải là người sáng lập nên tổ chức Nghị Hội Toàn Quốc Nam Phi (African National Congress) và chỉ là một trong tám người bị kết án chung thân trong phiên xử ngày 12 tháng Sáu năm 1964. Chuyến bay đêm ra nhà tù trên đảo Robben Island có bảy tù nhân chứ không phải một mình Nelson Mandela. Tuy nhiên, thế giới gần như không biết gì nhiều về Walter Sisulu, Govan Mbeki và năm người khác mà chỉ biết Nelson Mandela. Lý do, Nelson Mandela là biểu tượng đấu tranh của phong trào chống kỳ thị chủng tộc tại Nam Phi.

Tương tự, thế giới nỗ lực vận động cho bà Aung San Suu Kyi và gần như bỏ qua số phận của nhiều ngàn tù chính trị bị giam giữ tại nhà tù Insein Prison ở Rangoon suốt từ năm 1962 khi tướng Ne Win đảo chánh chính phủ dân chủ và thiết lập bộ máy độc tài quân phiệt.

Trong 15 năm, ngoại trừ một thời gian ngắn bị giam trong một căn nhà nhỏ nằm trong khu vực nhà tù Insein, bà Aung San Suu Kyi sống trong một biệt thự, có khu vườn rộng, không phải lao động khổ sai, không đói khát, an nhàn đọc sách. Lý do thế giới tập trung ủng hộ bà vì bà là biểu tượng cho cuộc đấu tranh chống độc tài quân phiệt Miến Điện.

Phong trào dân chủ Việt Nam thiếu những biểu tượng đấu tranh có nhiều tiện nghi, tầm mức và lâu dài như Nelson Mandela hay Aung San Suu Kyi. Nhưng nếu chưa có, chẳng lẽ ngồi chờ một lãnh tụ anh minh xuất hiện dẫn dắt phong trào hay sao? Nelson Mandela và Aung San Suu Kyi là tù nhân, nhưng quan trọng hơn là tù nhân biểu tượng của cuộc đấu tranh. Ủng hộ Nelson Mandela và Aung San Suu Kyi là một cách ủng hộ cho phong trào dân chủ tại Nam Phi và Miến Điện.

Phong trào dân chủ Việt Nam thiếu những biểu tượng đấu tranh có nhiều tiện nghi, tầm mức và lâu dài như Nelson Mandela hay Aung San Suu Kyi. Nhưng nếu chưa có, chẳng lẽ ngồi chờ một lãnh tụ anh minh xuất hiện dẫn dắt phong trào hay sao? Không. Thay vào đó, trong mỗi giai đoạn, phong trào dân chủ có một hay hai biểu tượng tính theo thời gian họ có những hoạt động nổi bật và bị CSVN kết án.

Nguyễn Đan Quế (1978, 1990), Hà Sĩ Phu (1996), Lê Chí Quang (2002), Phạm Hồng Sơn (2003), Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân (2007), Nguyễn Văn Hải (2008), Đoàn Huy Chương, Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng (2010), Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Lê Thăng Long, Trần Huỳnh Duy Thức (2010), Cù Huy Hà Vũ (2010), Tạ Phong Tần (2012), Lê Quốc Quân (2012), Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha (2013), Nguyễn Văn Đài (2015), Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (2016). Đó là chưa nhắc đến các vị lãnh đạo tôn giáo và một số khá đông cá nhân và đoàn thể khác.

 Những người được xem là biểu tượng của một giai đoạn đấu tranh dân chủ tại Việt Nam trước hết là vì lòng can đảm. Họ được vinh danh, ca ngợi cũng chỉ vì họ đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho tương lai tự do dân chủ của đất nước. Mọi ca ngợi hay vinh danh dành cho họ đều chỉ giới hạn trong không gian và thời gian họ hoạt động và bị tù. Báo chí và dư luận thế giới, cả người Việt ở hải ngoại, khó có thể biết hết và dành những quan tâm đúng mức cho một danh sách dài những tù nhân lương tâm đang bị CS bỏ tù tại Việt Nam, do đó, biểu tượng đấu tranh là cần thiết. Vai trò của một biểu tượng không chỉ đúng cho trường hợp Việt Nam mà là một nguyên tắc cách mạng đã chứng minh tại hầu hết các cuộc cách mạng dân chủ trên thế giới.

Những người được xem là biểu tượng của một giai đoạn đấu tranh dân chủ tại Việt Nam trước hết là vì lòng can đảm. Họ được vinh danh, ca ngợi cũng chỉ vì họ đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho tương lai tự do dân chủ của đất nước. Mọi ca ngợi hay vinh danh dành cho họ đều chỉ giới hạn trong không gian và thời gian họ hoạt động và bị tù. Nếu họ được tự do, cám ơn họ đã đi một chặng đường cùng với phong trào dân chủ nói riêng và đất nước nói chung, sau đó nên để họ bình yên với chọn lựa của mình.

Phần đông trong số họ chẳng phải là Nelson Mandela, Aung San Suu Kyi, Václav Havel hay Andrei Sakharov. Họ đứng lên chỉ vì bất bình trước một xã hội bất công và chấp nhận tù đày. Đừng kỳ vọng quá nhiều vào họ và cũng đừng đặt họ vào những vị trí mà họ chưa thể đứng vững để rồi thất vọng, chán chường, trách móc và quay sang hằn học.

 Trong tuyển tập Mao Trạch Đông, họ Mao từng nói nhiệm vụ của đảng CS không chỉ thắng kẻ thù nhưng quan trọng hơn là phân hóa kẻ thù. Ngay từ thời Lenin, ba phương pháp chính trị học đã được các chế độ CS dùng để vô hiệu hóa một đối tượng: cô lập hóa, trung lập hóa và thỏa hiệp. Trong tuyển tập Mao Trạch Đông, họ Mao từng nói nhiệm vụ của đảng CS không chỉ thắng kẻ thù nhưng quan trọng hơn là phân hóa kẻ thù. «Phân hóa kẻ thù» trong trường hợp đang bàn là làm cho mọi người chung quanh ghét bỏ, khinh bỉ và xa lánh một đối tượng.

Gắn cái nhãn «dân chủ cuội» hay «đấu tranh để được ra nước ngoài» là cách dễ nhất để cô lập một đối tượng. Với suy nghĩ nặng cảm tính của nhiều người Việt, không cần phải lập lại ba lần như trong chuyện «Tăng Sâm giết người» mà chỉ chụp mũ một lần cũng đủ làm mọi người xa lánh đối tượng mà chế độ CS cần cô lập. Rất buồn, cho tới nay đảng CSVN chứng tỏ rất thành công với chiến thuật rất căn bản, quen thuộc nhưng hữu hiệu này.

Đừng tự nguyện thực thi chính sách phân hóa kẻ thù giùm cho đảng CS. Đừng để lòng yêu nước bị CS khai thác như CS đã từng làm khi đẩy nhiều triệu tuổi trẻ miền Bắc vào lò lửa chiến tranh và dụ dỗ nhiều tuổi trẻ miền Nam trở thành những tay sai cho đảng lũng đoạn xã hội miền Nam trước năm 1975.

Còn những kẻ cơ hội thì sao? Vâng, những kẻ cơ hội bao giờ cũng có, ở đâu cũng có, lãnh vực nào cũng có. Trong phong trào dân chủ Việt Nam còn non trẻ, phân tán, lỏng lẻo và phải đương đầu với khó khăn từ mọi phía cũng vậy, khó có thể tránh khỏi những người núp dưới chiếc dù lý tưởng tự do dân chủ để kiếm sống hay trục lợi bằng việc lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người khác. Tuy nhiên, không nên từ vài kẻ cơ hội để suy ra hay đánh mất niềm tin vào cả một phong trào.

Trong danh sách người viết kể ở phần trên, có ai biết Lê Chí Quang, người một thời đã đánh thức bao nhiêu triệu người với bài viết «Hãy cảnh giác với Bắc Triều» bây giờ đang ở đâu, làm gì và còn có mặt hay không trên hành trình tranh đấu hôm nay?

Chắc không nhiều người còn nhớ. Nhưng điều đó không quan trọng. Trên chặng đường tranh đấu gian nan, có những người đứng chờ ở mỗi sân ga để bước lên cùng đi với đất nước. Cũng ngay tại sân ga đó lại có người bước xuống theo chọn lựa riêng của mình. Họ mệt mỏi, họ chán nản, họ hết năng lực, họ thỏa hiệp hay có thể vì bất cứ lý do nào. Dù chọn lựa của họ là gì đi nữa vẫn cám ơn những cống hiến của họ và có họ hay không con tàu vẫn tiếp tục băng trên đường lịch sử mang theo những hành khách mới.


Tất cả hiện đang sống trong địa ngục trần gian ở Việt Nam

Hãy làm quen và cùng đi với họ trong cuộc đấu tranh này. Hành khách mới hôm nay là Lê Đình Lượng 20 năm tù, Đào Quang Thực 14 năm tù, Hoàng Đức Bình 14 năm tù, Nguyễn Trung Trực 12 năm tù, Nguyễn Đình Thành 7 năm tù, Lưu Văn Vịnh 15 năm tù, Nguyễn Quốc Hoàn 13 năm tù, Từ Công Nghĩa 10 năm tù, Nguyễn Văn Đức Độ 11 năm tù, Phan Trung 8 năm tù.

Ngoài ra, một danh sách trên 200 tù nhân khác trong đó có những tên tuổi quen thuộc như Trần Anh Kim 14 năm tù, Trần Thị Nga 9 năm tù, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng 9 năm tù, Nguyễn Trung Tôn 12 năm tù, Trương Minh Đức 12 năm tù, Nguyễn Bắc Truyển 9 năm tù, Phạm Văn Trội 7 năm tù.

Tất cả hiện đang sống trong địa ngục trần gian ở Việt Nam. Hãy làm quen và cùng đi với họ trong cuộc đấu tranh này.
Trần Trung Đạo


(Đặc San Lâm Viên)

Share:

Thứ Hai, 22 tháng 10, 2018

Donald Trump và 5 cuộc chiến định vị lại nước Mỹ và thế giới



Donald Trump và 5 cuộc chiến
định vị lại nước Mỹ và thế giới

TS Hoàng Anh Tuấn


Khi nói đến tình hình thế giới hiện nay, câu chuyện cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung và xa hơn một chút là nguy cơ đối đầu toàn diện về kinh tế, chính trị, chiến lược, khoa học kỹ thuật giữa cường quốc số một và số hai trong việc tranh ngôi bá chủ toàn cầu cùng các tác động của cuộc đối đầu này dường như đang chi phối mối quan tâm của thế giới.
Cuộc đối đầu này sẽ kéo dài bao lâu? Sau nhiệm kỳ của Tổng thống Trump hay sẽ kéo dài tới 45 năm như Chiến tranh lạnh Mỹ – Xô trước đây? Khó ai có thể dự báo chính xác, nhưng chắc chắn sẽ không kết thúc nhanh chóng.
Tỷ phú giàu nhất Trung Quốc Jack Ma đã «chuẩn bị tinh thần» cho giới lãnh đạo chính trị và kinh doanh Trung Quốc rằng Trung Quốc và thế giới cần phải chuẩn bị cho một cuộc chiến thương mại Trung – Mỹ có thể kéo dài đến 20 năm, tức sẽ kéo dài nhiều năm sau khi Trump không còn là Tổng thống Mỹ nữa.
Ở một góc độ nào đó, việc dư luận quan tâm đến khía cạnh thương mại và đối đầu chiến lược giữa hai cường quốc này là đúng nhưng chưa đủ vì nó mới chỉ phản ánh được một phần những chuyển động lớn đang chi phối cục diện thế giới hết sức phức tạp hiện nay.
Tạm thời chưa bàn đến chiến lược mới của Trung Quốc nhằm định vị lại vị thế quốc tế mới của mình và nỗ lực xây dựng một trật tự và hệ thống quan hệ quốc tế mới trong bài viết này, mà chỉ tập trung vào những chuyển động lớn từ Mỹ bắt đầu từ dưới thời Tổng thống Donald Trump.
Rất khó để hiểu chính xác Trump, ông ta muốn gì, sẽ làm gì, làm như thế nào và làm được đến đâu. Việc lãnh đạo Trung Quốc không hiểu rõ, phán đoán sai, rồi có những bước đi khiến «cuộc chiến thương mại» lúc đầu tưởng như chỉ bắt đầu từ những «xích mích» nhỏ, rồi lan ra thành cuộc đối đầu kinh tế, thương mại toàn diện… cần xem là chuyện «bình thường».
Ngay chính trong lòng nước Mỹ, dù thích hay không thích nhưng có một thực tế là không chỉ các đối thủ, mà ngay các đồng minh chính trị cũng không hiểu Tổng thống muốn gì, còn người dân và giới doanh nghiệp thì «thấp thỏm» chờ đợi các dòng «tweets» hàng ngày của Tổng thống để phán đoán hành động tiếp theo. Chưa kể sự thể còn bị «rối bung» khi hàng ngàn tờ báo từ cánh tả tới cánh hữu lao vào bình luận, mổ xẻ, phân tích, rồi bút chiến nhằm dẫn dắt dư luận theo nhiều chiều hướng khác nhau khiến thông tin trở nên «nhiễu loạn».
Tất cả những cái đó rất dễ dẫn dắt người đọc, dư luận đi vào các tiểu tiết, hoặc bỏ qua và không thể nhìn thấy các chiều hướng chính sách, các chuyển động lớn sẽ chi phối nước Mỹ và nền chính trị thế giới trong nhiều thập niên tới, được khái quát thành «5 cuộc đại chiến» của Trump.
Ở đây chưa bàn đến cái hay, cái dở, cái đúng, cái sai của các cuộc chiến này. Nhưng đây là thực tế những gì Trump đang làm và dù thích hay không thì nước Mỹ và thế giới cũng phải sống chung và thích ứng với thực tế này chừng nào mà Donald Trump vẫn còn là Tổng thống Mỹ.
Tìm đọc nhiều tư liệu, nhưng tôi cũng kinh ngạc khi phát hiện dường như trong lịch sử thế giới cận đại gần 500 năm qua, THẾ GIỚI CHƯA TỪNG CHỨNG KIẾN một nhân vật lãnh đạo nào của một quốc gia hùng mạnh nhất thế giới như Donald Trump lại cùng lúc phát động 5 «cuộc chiến sống mái» trên 5 mặt trận khác nhau.
Cần nhớ, trong các bài học lịch sử kinh điển, chỉ cần thắng hay thua trong một cuộc chiến, chỉ một cuộc chiến thôi, đã đủ để lưu danh muôn thuở hay chôn vùi vĩnh viễn danh tiếng bất kì một tổng thống nào của nước Mỹ.
Vậy 5 cuộc chiến đó là gì?
I. Cuộc chiến thứ nhất: Xác lập «giá trị bảo thủ» và tìm cách đẩy lui các «giá trị tự do»
Cuộc chiến này thể hiện qua cuộc đấu quyết liệt giữa hai phe Cộng hòa và Dân chủ qua việc đề cử Thẩm phán Brett Kavanaugh vào vị trí thẩm phán suốt đời tại Tòa án tối cao (Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ) gồm 9 người thay cho Thẩm phán Anthony Kennedy. Thẩm phán Kennedy được Tổng thống Reagan bổ nhiệm năm 1987 và về hưu năm 2018 sau 31 năm ở cương vị này.
Việc đề cử vị trí thẩm phán thứ 9 Tòa án tối cao diễn ra ngay trong nhiệm kỳ đầu của  Tổng thống Cộng hòa Trump và trùng hợp với thời điểm đảng Cộng hòa đang kiểm soát đa số (dù mỏng manh) tại Thượng viện, đang giúp  Tổng thống Trump lựa chọn người cùng quan điểm qua đó ghi dấu ấn, tạo ảnh hưởng bảo thủ và góp phần định vị bản sắc của nước Mỹ trong nhiều thập niên sau này. Tất nhiên, cần hiểu rõ đây không phải là những quan niệm bảo thủ hay tự do mà ta và nhiều nước khác quan niệm, mà chủ yếu liên quan đến các vấn đề xã hội, tôn giáo, thuế, tự do cá nhân và đạo đức của người Mỹ.
Vị trí Thẩm phán Tối cao Pháp viện là vị trí đầy quyền lực trong hệ thống chính trị tam quyền phân lập tại Mỹ, có quyền giải thích hiến pháp, các đạo luật của Quốc hội, sắc lệnh của Tổng thống xem có vi hiến hay không, cho ý kiến về các vụ xét xử gây tranh cãi, dư luận quan tâm thông qua hình thức bỏ phiếu.
Lấy ví dụ về sắc lệnh cấm người Hồi giáo từ 6 quốc gia Hồi giáo nhập cư vào Mỹ khi Tổng thống Trump mới lên cầm quyền. Khi đó Tối cao Pháp viện phải ra phán quyết đây là sắc lệnh không vi hiến thì Sắc lệnh này của Tổng thống mới được thực thi.
Chỉ đơn cử một việc như vậy đã giải thích tại sao cả hai phe Dân chủ và Cộng hòa một bên thì kịch liệt phản đối, còn bên kia thì ủng hộ bằng mọi giá ứng cử viên Thẩm phán Tối cao Pháp viện thông qua cuộc Điều trần đang diễn ra và tiếp theo là màn bỏ phiếu hết sức gay cấn ngay trước thềm bầu cử giữa nhiệm kỳ vào tháng 11/2018.
Và cũng cần nhắc lại là các Tổng thống Mỹ như Ronald Reagan, Bill Clinton, George Bush từng không thành công lần đầu khi các ứng viên cho vị trí Thẩm phán Tối cao Pháp viện của mình không vượt qua được vòng điều trần hoặc bỏ phiếu tại Quốc hội.
II. Cuộc chiến thứ hai: Chống lại ngay chính đảng đề cử mình để bảo vệ những giá trị bảo thủ cốt lõi của những người Cộng hòa theo quan điểm của Trump
Đây là điều tưởng chừng là nghịch lý, nhưng lại là thực tế. Lần ngược lại thời gian trước cuộc bỏ phiếu Tổng thống Mỹ tháng 11/2016, Trump khi đó bị những lãnh đạo chủ chốt của Đảng Cộng hòa xem là «đứa con hoang» (pariah), đi ngược dòng chủ lưu.
Nhưng trái với hầu hết các dự báo, Trump – một người chưa hề có kinh nghiệm chính trường – lần lượt đánh bại từng đối thủ một vốn là các nhân vật lãnh đạo gạo cội và «ngôi sao» trong đảng Cộng hòa như Rand Paul, Mitch Romney, McGovern…
Thông thường trong chính trị Mỹ «cuộc chiến nội bộ» thường kết thúc khi đã có phân định thắng thua. Tuy nhiên, với Trump thì ngược lại. Với tỷ lệ ủng hộ lên tới 85% các cử tri Cộng hòa, Trump gần như không có các đối thủ nặng ký trong đảng Cộng hòa nên mạnh tay tấn công các «cây đa, cây đề», các thiết chế mà Trump xem là «trì trệ» trong đảng Cộng hòa để xây dựng liên minh mới, thúc đẩy các ý tưởng bảo thủ và cải cách.
Còn các lãnh đạo Cộng hòa trong khi tiếp tục tận dụng ảnh hưởng của Trump để mở rộng uy tín của Đảng, thì cũng đấu quyết liệt không kém với Trump trong nội bộ đảng để chống lại một số cải cách mà họ xem là «nguy hại» cho nước Mỹ, tìm cách duy trì các thiết chế cũ cũng như dòng tư tưởng chủ lưu. Tuy nhiên, đối với nhiều nghị sĩ thì việc duy trì trật tự cũ còn là cách để họ tiếp tục duy trì ảnh hưởng và tiếp tục được hưởng các «đặc quyền, đặc lợi».
III. Cuộc chiến thứ ba: Chống lại các thiết chế đã định hình và sự «trì trệ» của nước Mỹ
Nếu chỉ đọc qua về sự «trì trệ» của nước Mỹ, người đọc dễ liên tưởng đây là câu chuyện hoang tưởng, nhưng đó lại phản ánh một phần sự thật. Nước Mỹ từ lâu vốn được xem là quốc gia năng động bậc nhất, là nơi tập trung các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu hàng đầu thế giới, là nơi có nhiều nhà khoa học đoạt giải Nobel nhất thế giới, nơi luôn khuyến khích sự sáng tạo, các ý tưởng lạ. Tóm lại, nước Mỹ được nhìn nhận là quốc gia luôn thay đổi và biết cách «tự làm mới» mình liên tục.
Còn nhớ câu chuyện giữa những năm 1980, cách đây quãng ba chục năm, khi đó Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Mikhail Gorbachev đưa ra ý tưởng «cải tổ» và «công khai hóa» («perestroika» and «glasnost») đã làm thế giới phát sốt, còn nước Mỹ thì bị lo qua mặt. Khi đó có nhà báo hỏi Tổng thống Ronald Reagan là nước Mỹ có ý định thực thi «cải tổ» và «công khai hóa» như Gorbachev đang theo đuổi hay không thì câu trả lời của Reagan, đại ý là: Gorbachev đang làm cái việc mà đáng ra các nhà lãnh đạo Liên Xô phải làm từ lâu, nhưng họ đã không làm và để vấn đề tích tụ lại. Mỹ không cần «cải tổ» hay «công khai hóa» vì đây là việc Mỹ làm thường xuyên.
Kết quả là «cải tổ» và «công khai hóa» của Gorbachev thiếu một tầm nhìn và cách làm bài bản đã đưa Liên Xô và hệ thống Xã hội chủ nghĩa Đông Âu đến chỗ sụp đổ, còn khẩu hiệu «làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại» (Make America Great Again) của Reagan cùng chính sách kinh tế Reaganomics và «làm mới lại nước Mỹ ngay trên đất Mỹ» đã giúp nước Mỹ hùng mạnh trở lại trên mọi phương diện vào đầu những năm 1990.
Quay trở lại nước Mỹ trước khi Trump lên cầm quyền. Từ góc độ của một nhà kinh doanh thành đạt trên đỉnh cao sự nghiệp và góc nhìn mới của một chính trị gia Trump cảm thấy hết sức «thất vọng» vì nước Mỹ đang trở nên già nua, xơ cứng, có quá nhiều «trì trệ», sức ỳ, quá nhiều rào cản. Bên cạnh đó, quá nhiều thế lực hùng mạnh trong giới chính trị, kinh doanh, truyền thông… sẵn sàng liên kết, ra tay bóp nghẹt các ý tưởng mới để bảo vệ đặc quyền của mình, mà như từ ngữ ta hay dùng là lợi ích nhóm.
Lợi ích nhóm ở nước Mỹ hiện quá hùng mạnh, bám rễ quá sâu nên các nhóm này sẵn sàng liên kết, tiến hành «chiến tranh tổng lực» chống lại Trump và toàn bộ chính quyền của ông ta đến cùng. Ngược lại, để thực hiện cam kết tranh cử đưa nước Mỹ «vĩ đại trở lại», Trump, với tác phong và cách làm «phi truyền thống», cũng lao vào ăn thua đến cùng với nhóm lợi ích.
Đỉnh điểm là ngày 16/8/2018 vừa qua, cùng lúc 350 tờ báo trên khắp nước Mỹ, trong đó có những tờ lâu đời và nổi tiếng như Boston Globe, The New York Times, Washington Post, Philadelphia Inquirer… đồng loạt đăng xã luận, công kích chính quyền Trump, coi cá nhân và Chính quyền Trump là mối đe dọa lớn nhất đối với tự do báo chí – vốn từng được coi là một trụ cột quan trọng trong xã hội Mỹ cùng với tam quyền phân lập.
Đây là điều chưa từng xảy ra trong lịch sử và xã hội Mỹ từ xưa đến nay. Nói đến đặc quyền của báo chí Mỹ thì phải kể đến câu chuyện cách đây 36 năm, chỉ với tờ Washington Post đi tiên phong, cùng các phóng sự của hai nhà báo điều tra gạo cội là Carl Bernstein và Bob Woodward đã góp phần «hạ bệ» Tổng thống đương nhiệm Richard Nixon trong vụ Watergate. Với sức mạnh của báo chí tới mức có thể «làm nên» hay «làm tiêu tùng» (make or break) sự nghiệp của một Tổng thống như vậy nên các chính trị gia thường chọn cách «dĩ hòa vi quý» thay vì làm «mếch lòng» báo chí.
Tuy nhiên, Trump thì khác hẳn, chọn ngay cách đối đầu với báo chí «không cùng phe» điển hình là CNN, Washington Post, The New York Times. Trump sử dụng con bài nhất quán ngay từ đầu là coi ba tập đoàn truyền thông lớn này cùng các bài báo chỉ trích cá nhân và chính quyền của mình là «báo chí của phe Dân chủ» và chuyên đăng «tin giả» (fake news)! Nói cách khác, Trump đánh trực tiếp vào tính chính danh và sự khách quan của báo chí «không cùng phe».
Nhìn một cách công bằng, sự ra đời của Internet, và cùng với nó là các mạng xã hội như Facebook, Twitter, Snapchat, YouTube… trong những năm qua đã làm giảm đáng kể quyền lực của các «ông lớn» truyền thông trong khi các ông lớn này vẫn ngủ quên trên đỉnh cao quyền lực thời hoàng kim. Mặt khác, sự phân hóa Xã hội Mỹ về mọi mặt, từ câu chuyện ranh giới giàu nghèo, thu nhập, đẳng cấp, sự hình thành giới chính trị gia «xa lông» ngày càng tách rời tầng lớp «thấp cổ bé họng»… dưới tác động đa chiều của Cách mạng công nghiệp 4.0, toàn cầu hóa đã tác động mạnh, làm báo chí mất đi sự trung lập vốn có và khiến báo chí cũng phân làn rõ rệt. Trước đây thì rất khó phát hiện, nhưng nay chỉ cần cầm một tờ báo bất kì, đọc qua vài bản tin hoặc bật xem TV vài phút là có thể nói tương đối chính xác thiên kiến chính trị của tờ báo hoặc một hãng truyền thông nào đó.
Do đó, khá dễ hiểu là 350 tờ báo cùng lúc đả kích Trump nhưng lại ít nhiều đều chia sẻ các quan điểm chính trị như nhau. Và như thường lệ, chỉ vài dòng «Tweets» với 50 triệu người theo dõi mỗi ngày, Trump dễ dàng «vô hiệu hóa» các xã luận trên. Trước đây khi mạng xã hội chưa phát triển, các Tổng thống, chính trị gia thường đứng im chịu trận. Nhưng nay, Trump cũng lên tiếng «đòi» được đối xử công bằng, không bị báo chí tấn công một chiều!
Tuy nhiên, chủ đích cuối cùng của Trump là «vô hiệu hóa» sự chỉ trích của đối thủ, khiến ông ta có vị thế áp đảo trong giới truyền thông, từ đó gây ảnh hưởng, truyền tải các thông điệp chính trị.
Trong lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, quản trị đất nước…. Trump cũng có những cách làm «lạ đời», giúp tiết kiệm hàng chục triệu giờ công lao động hoặc hàng tỷ USD tiền đóng thuế của người dân, doanh nghiệp, cụ thể là:
– Trump ngay khi nhậm chức đã yêu cầu Boeing phải xem xét và đàm phán lại Hợp đồng mà Chính quyền Tổng thống Obama đã ký trước đó để mua hai máy bay «Không lực số một» (Air Force One) giao hàng vào năm 2024 vì giá quá cao. Boeing đứng trước tình thế phải đàm phán lại nếu không có nguy cơ bị hủy hợp đồng. Kết quả là cặp máy bay nay chỉ còn giá 3,9 tỷ USD, từ giá «trên trời» là 5,3 tỷ USD, tức giảm khoảng 25% giá ban đầu.
– Tương tự như vậy, Trump và Lầu Năm Góc cũng buộc hãng Lockheed Martin, nhà cung cấp máy bay chiến đấu F-35 thế hệ thứ năm phải đàm phán lại và giảm giá từ 95 triệu USD/1 chiếc F-35 mà Lầu Năm Góc trả năm 2017, xuống còn 89 triệu USD/1 chiếc cho lô hàng giao trong năm 2018 và 80 triệu USD/1 chiếc năm 2020.
Chỉ qua hai vụ đàm phán đình đám, thông điệp của Trump đối với giới doanh nghiệp rất đơn giản: Ngay cả những hàng hóa mang tính biểu tượng của Tổng thống, đến bảo vệ an ninh quốc gia chính quyền cũng sẵn sàng xem xét, thậm chí hủy đơn hàng nếu cần. Dó đó, các hãng lớn nếu muốn làm ăn với chính phủ, muốn có tương lai phải cải tiến, nâng cao chất lượng và giảm giá thành.
– Ngoài việc đơn giản hóa sắc luật thuế liên bang, ngày 30/1/2017 Trump còn ký một sắc lệnh của Tổng thống quy định, từ nay trở đi bất cứ một quy định, hay điều lệ mới nào của liên bang ra đời thì cơ quan đệ trình buộc phải vô hiệu hóa quy định hay điều lệ cũ. Mục đích của việc này là tránh biến các cơ quan công quyền thành bộ máy quan liêu, ra các «quy định trên trời», tạo thuận lợi tối đa cho cuộc sống, sinh hoạt của người dân, cũng như hoạt động của doanh nghiệp.
Trên đây chỉ là một ít ví dụ, nhưng nó cho thấy cuộc chiến chống lại thiết chế đã định hình và gắn với nó là lợi ích nhóm với đủ loại biến tướng là hết sức khó khăn, phức tạp. Hơn nữa, đây lại là cuộc chiến nội bộ nơi các đồng minh lẫn đối thủ đều minh tường các điểm mạnh, yếu của nhau và sẵn sàng ra đòn dứt điểm đối phương bất cứ khi nào có thời cơ.
IV. Cuộc chiến thứ tư: Duy trì địa vị siêu cường số một thế giới của Mỹ
Theo tư duy và cách làm thông thường, một quốc gia duy trì ngôi vị hàng đầu của mình bằng cách thực hiện hai bước song song: Củng cố sức mạnh quốc gia tổng hợp của mình, đồng thời chặn bước tiến và tạo khoảng cách xa nhất có thể với địch thủ bám ngay sát. Và nước Mỹ không phải là ngoại lệ.
Lịch sử của Mỹ từ khi lập quốc ngày 4/7/1776 đến nay là lịch sử bành trướng, và vươn lên không ngừng, từ một liên bang lỏng lẻo gồm 13 bang ban đầu vốn dĩ là thuộc địa của Anh Quốc thành một nhà nước liên bang hợp chúng quốc hùng mạnh nhất thế giới với 50 bang như hiện nay. Lịch sử Mỹ cũng là lịch sử đấu tranh và triệt hạ không khoan nhượng bất kỳ địch thủ nào tìm cách thách thức vị trí số một của Mỹ.
Chỉ sau khoảng 100 năm lập quốc, đến đầu những năm 1870, sau khi kết thúc nội chiến Bắc Nam (1861-1865) Mỹ đã thay Anh trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, rồi trở thành siêu cường số một thế giới khoảng 70 năm sau đó sau khi kết thúc Thế chiến II năm 1945. Trong khi hầu hết các cường quốc khác bị suy yếu và tàn phá nghiêm trọng bởi chiến tranh thì Mỹ ra khỏi Thế chiến II với vị thế đặc biệt của người chiến thắng, với sức mạnh vượt trội so với bất kỳ cường quốc nào khác.
Trong khoảng thời gian 5 năm hậu chiến, GDP của Mỹ luôn chiếm tới 1/2 GDP của cả thế giới, Mỹ cũng là quốc gia duy nhất sở hữu vũ khí nguyên tử, còn đồng USD thì «hất cẳng» đồng bảng Anh, trở thành đồng tiền thanh toán, lưu trữ chủ chốt của thế giới. Với vị thế áp đảo như vậy, Mỹ dễ dàng «vẽ» trật tự của Phương Tây và phần nào đó là trật tự thế giới hòng thao túng theo ý đồ của mình: Về quân sự, Mỹ lập ra khối quân sự Bắc Đại Tây Dương; về thương mại Mỹ sử dụng ảnh hưởng để lập Hiệp định Thuế quan và Thương mại (GATT), tổ chức tiền thân của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO sau này; còn về tài chính, Mỹ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc lập ra các thiết chế tài chính có ảnh hưởng đến tận bây giờ như: Ngân hàng Thế giới (World Bank), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển (IBRD), Công ty Tài chính Quốc tế (IFC)… Mục đích tối thượng là duy trì địa vị cường quốc số một thế giới và thiết lập một trật tự toàn cầu bao trùm hầu khắp các lĩnh vực theo luật chơi do Mỹ đặt ra.
Trong 45 năm sau Thế chiến II, hệ thống quốc tế do Mỹ «cầm trịch» đã vận hành tương đối hiệu quả, giúp Mỹ «đánh bại» – dù hết sức khó khăn – được địch thủ cạnh tranh về quân sự, chiến lược và ý thức hệ là Liên Xô, khiến không chỉ Liên Xô mà cả hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu cùng lúc bị tan rã.
Về mặt kinh tế, với Thỏa ước Plaza (Plaza Accord) ký ngày 22/9/1985 tại New York để giải quyết «chiến tranh tiền tệ» giữa năm cường quốc Phương Tây, mà thực chất là nhằm vào Nhật Bản, buộc nước này phải tăng giá đồng Yên so với đồng USD và các ngoại tệ chủ chốt khác. Thỏa ước Plaza là đòn độc, đòn «tước vũ khí» quyết định khiến Nhật không thể dùng chiến thuật dumping (giảm giá), cạnh tranh không lành mạnh nhờ hỗ trợ của chính phủ để đánh bại các công ty Mỹ. Và cũng từ đây bong bóng bất động sản Nhật bị bể, kinh tế rơi vào trạng thái trì trệ suốt từ đầu những năm 1990 đến nay và từ đó trở đi Nhật không bao giờ trở thành mối đe dọa về kinh tế với Mỹ nữa.
Tuy nhiên, từ đầu những năm 1990 sau khi Liên Xô tan rã thì nước Mỹ bước vào tình trạng «phởn chí» khi không còn đối thủ ngang tầm. Học giá Mỹ nổi tiếng Francis Fukayama thậm chí còn xuất bản cuốn sách «Sự cáo chung của Lịch sử» (The End of History and the Last Man), với tuyên bố ngạo mạn về «Chiến thắng của nền dân chủ tự do» đứng đầu là Mỹ trước các «chính thể chuyên quyền». Tiếp đó là các sai lầm chiến lược nối tiếp sai lầm khi Mỹ sử dụng lực lượng quân sự quy mô lớn tiến hành cùng lúc cuộc chiến chống khủng bố hao người tốn của và không lối thoát sau vụ khủng bố 11/09/2001 – với phí tổn khoảng 4000 tỷ USD và hàng chục ngàn sinh mạng – trên hai mặt trận là Iraq và Afghanistan.
Trong khi đó, trên một mặt trận khác, Trung Quốc thực hiện một chiến lược âm thầm, nhưng hết sức quyết liệt là thực thi cải cách mở cửa về kinh tế, xây dựng nội lực bên trong, cố gắng tránh, tìm cách không gây bất hòa hoặc đối đầu với Mỹ khi không cần thiết. Nhờ chiến lược «Thao quang dưỡng hối», hiện đại hoá đúng đắn, cách làm bài bản, có sự chỉ huy, thống nhất và tập trung cao độ, lại tận dụng được lợi thế của người đi sau trong việc áp dụng cách mạng khoa học công nghệ nên Trung Quốc đã lớn mạnh vượt bậc chỉ trong thời gian rất ngắn. Trong giai đoạn kéo dài 25 năm từ 1990-2014, Trung Quốc đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 10% năm, vượt Nhật Bản và trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới từ 2010. Trong giai đoạn 2004-2016 GDP của Trung Quốc tăng trưởng tới 4 lần từ 2.500 lên 10.000 tỷ USD và đuổi sát Mỹ. Đến trước giai đoạn Tổng thống Donald Trump lên nắm quyền 01/01/2017, nếu như tốc độ phát triển kinh tế của Mỹ và Trung Quốc vẫn duy trì như thời gian trước đó thì theo dự báo của WB và IMF, chỉ đến năm 2025 hoặc cùng lắm là 2030 Trung Quốc sẽ vươn lên thay thế Mỹ để trở thành cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới.
Không chỉ phát triển về lượng, mà Trung Quốc còn phát triển về chất, hướng đến các tiêu chí quản trị doanh nghiệp, quản trị quốc gia thông minh, xây dựng lối sống, cách hành xử văn minh của người dân theo những tiêu chuẩn cao nhất của thế giới.
Nhờ sự lớn mạnh về kinh tế, sự phát triển về khoa học kỹ thuật vượt bậc, Trung Quốc cũng mạnh dạn, tự tin và quyết đoán trong chi tiêu quốc phòng, trong hành xử với láng giềng và trong quan hệ quốc tế cho phù hợp với vị thế mới của mình. Đáng chú ý là Trung Quốc thực hiện cùng lúc hai chiến lược lớn, đầy tham vọng là trở thành cường quốc số một thế giới về công nghệ vào năm 2025 và chiến lược Vành đai, Con đường (BRI) nhằm tạo ra một hệ thống riêng, trong đó Trung Quốc có vai trò chi phối. Chiến lược Vành đai, Con đường nếu được thực thi đầy đủ sẽ giúp thúc đẩy 6 kết nối chặt chẽ về đường không, đường biển, đường bộ, đường sắt, kết nối về mạng lưới viễn thông, kết nối về dịch vụ tài chính giữa Trung Quốc và khoảng 80 quốc gia trên thế giới, kéo dài từ Bắc Á qua Đông Nam Á, Nam Á, Trung Đông, châu Phi, một phần Tây và Đông Âu, Nga và Trung Á, những nước chiếm khoảng 1/2 dân số, 1/3 tổng GDP và 1/4 tổng thương mại thế giới. Cùng với BRI, Trung Quốc liên tiếp cho ra đời Ngân hàng Phát triển Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) củng cố và mở rộng vai trò của Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO), Nhóm BRICS gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi…
Dưới góc nhìn của Trump và Chính quyền mới ở Mỹ, sự vươn lên của Trung Quốc và cách thức Trung Quốc thiết lập một hệ thống riêng không khác gì cách thức Mỹ từng làm trước đây khi Thế chiến II kết thúc để xác lập và củng cố vị trí siêu cường lâu dài sau đó. Và đây là điều không thể chấp nhận được với Trump cũng như bất kỳ chính quyền nào của Mỹ trước đó.
Tuy nhiên, trong khi các vị Tổng thống tiền nhiệm hoặc né tránh, hoặc không có một chiến lược rõ ràng rồi sau đó đối phó với Trung Quốc một cách nửa vời thì chiến lược của Trump lại hết sức rõ ràng với hai bước song song: (i) Đối đầu trực diện, tìm cách làm suy yếu đối phương về mọi mặt; và (ii) «Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại» (Make America Great Again) thông qua việc kiên trì thực hiện khẩu hiệu tranh cử «Nước Mỹ trên hết» (America First).
Thực chất của chiến lược này là tạo khoảng cách «an toàn» giữa Mỹ và đối thủ tiềm tàng đang bám ngay sát nách, khiến đối thủ không đủ sức mạnh và khả năng để tranh chấp hay thách thức vị trí số một của Mỹ một cách hiệu quả.
1) Làm suy yếu đối thủ tiềm tàng về mọi mặt
Đối với Chính quyền Trump, «mối đe dọa» lớn nhất, trực tiếp nhất và «nguy hiểm» nhất hiện nay đối với vị trí siêu cường và hệ thống quốc tế do Mỹ đóng vai trò chủ đạo không còn là chủ nghĩa khủng bố hay mối đe doạ từ Nga mà là từ Trung Quốc và điều này được nêu rõ trong Chiến lược an ninh quốc gia mới công bố đầu năm 2018. Thách thức này lớn hơn hẳn so với tất cả các thách thức mà Mỹ từng phải đương đầu từ sau Thế chiến II đến nay.
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, mối đe dọa của Liên Xô chủ yếu từ góc độ an ninh và quân sự chứ chưa bao giờ là thách thức kinh tế. Còn Nhật, thì chỉ tạo ra thách thức kinh tế, thương mại đối với Mỹ trong một thời gian ngắn chứ còn xét về các khía cạnh khác như dân số, chiến lược hay ý thức hệ thì Nhật lại không hề có tham vọng thách thức hay soán ngôi Mỹ.
Trái lại, trong các cường quốc lớn trên thế giới hiện nay, chỉ duy nhất Trung Quốc vừa có sức mạnh kinh tế, lẫn sức mạnh quân sự với kho vũ khí hạt nhân hùng hậu, có dân số đông nhất thế giới, có lãnh thổ đủ rộng, có ý thức hệ khác biệt, hơn nữa Trung Quốc là cường quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ và có lẽ hiện là cường quốc duy nhất, ngoài Mỹ, có tham vọng trở thành cường quốc số một thế giới.
Trong 500 năm qua, lịch sử thể giới đã chứng kiến 16 cuộc đối đầu giữa một cường quốc đã được thiết lập và một cường quốc đang trỗi dậy và tìm cách soán ngôi, trong đó 12 cuộc đối đầu kết thúc bằng chiến tranh. Thực ra, ngay từ cách đây ba năm, tác giả của bài viết này cũng đã từng đưa ra cảnh báo về «bẫy Thucydides» và cuộc xung đột «định mệnh», «không lối thoát» giữa Mỹ và Trung Quốc.
Đặt cạnh tranh Trung – Mỹ trong bối cảnh đó thì xung đột thương mại chỉ là «câu chuyện nhỏ», còn câu chuyện lớn hơn là sự cạnh tranh chiến lược, đối đầu trực diện về mọi mặt, trong đó Mỹ là bên đóng vai trò chủ động.
Vậy tại sao Trump lại chọn cuộc chiến thương mại (trade war) và tại sao lại vào lúc này? Trước hết đây là thời điểm kinh tế Mỹ đang ở giai đoạn tốt nhất trong hai thập niên qua, tính từ các góc độ: niềm tin của người tiêu dùng, giới doanh nghiệp; sự tăng trưởng của thị trường chứng khoán cao nhất mọi thời đại; tốc độ tăng trưởng kinh tế cao; tỷ lệ thất nghiệp thấp kỷ lục (3,7%)… Điều này có được một mặt là do cố gắng của chính quyền Trump, nhưng cũng có yếu tố may mắn khác là kinh tế Mỹ đang ở đỉnh cao của chu kỳ tăng trưởng. Trong khi đó , kinh tế Trung Quốc đang trong giai đoạn điều chỉnh, phát triển chậm lại sau giai đoạn phát triển quá nóng theo chiều rộng. Điều này có nghĩa Trump đang ở thế thượng phong để tung các «đòn độc» mà không sợ bị ảnh hưởng nhiều đến kinh tế Mỹ.
Còn chọn lĩnh vực thương mại thì theo tính toán của chính quyền Trump, đây là lĩnh vực Trung Quốc dễ tổn thương nhất do cán cân thương mại hai bên quá chênh lệch: Năm 2017, Mỹ xuất khẩu sang Trung Quốc 130 tỷ USD, còn nhập khẩu khoảng 506 tỷ USD, tức thâm hụt thương mại tới 376 tỷ USD. Trump cho rằng: (i) Là nước chịu thâm hụt thương mại lớn, Mỹ trong vai người mua mới ở vị trí thượng phong; (ii) Những hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc có thể dễ dàng thay thế bằng hàng hóa nhập khẩu từ các nước khác; (iii) Mỹ là thị trường xuất khẩu hàng hoá lớn nhất của Trung Quốc, và thương mại đóng góp tới 1/3 tăng trưởng kinh tế Trung Quốc.
Tuy nhiên, đích cuối cùng của Trump là đánh vào chuỗi sản xuất, cung ứng hàng hoá của Trung Quốc, chặn việc tiếp cận công nghệ cao để đi tắt đón đầu, và buộc Trung Quốc phải mở cửa thị trường, thay đổi cơ cấu kinh tế theo ý đồ của Mỹ. Nếu chấp nhận, nhiều khả năng kinh tế Trung Quốc sẽ bị kéo lùi, rơi vào tình trạnh, suy thoái, trì trệ như của Nhật Bản 30 năm trước. Đây là lý do mà Trung Quốc không thể chấp nhận và các cuộc đàm phán Mỹ-Trung về giải tỏa chiến tranh thương mại Mỹ-Trung cho đến nay không đạt kết quả.
Có thể dễ dàng nhận thấy, nếu kinh tế Trung Quốc bị kéo lùi lại do hệ quả của chiến tranh thương mại thì có thể dẫn đến những hệ quả ghê gớm: thất nghiệp tăng, nguy cơ bất ổn xã hội tăng cao, thị trường chứng khoán giảm tốc, đồng tiền mất giá, dự trữ ngoại hối sụt giảm, nguồn tiền đố vào chi tiêu quốc phòng cũng như đầu tư cho chiến lược «vành đai, con đường» sẽ không còn được dồi dào như trước.
Điều đáng chú ý là ngược lại với dự báo của hầu hết các nhà kinh tế, Trump càng siết chặt thuế quan đối với hàng xuất khẩu của Trung Quốc vào Mỹ thì kinh tế Mỹ lại càng nhận được tín hiệu tốt chứ không phải theo chiều ngược lại.
Một tín hiệu nữa không tốt cho Trung Quốc là Bộ trưởng thương mại Mỹ Wilbur Ross vừa «khoe» đã tìm ra «viên thuốc độc» (poison pill) để «trị» Trung Quốc, đó là «cấy» vào Hiệp định thương mại USMCA vừa ký giữa Mỹ, Mexico và Canada (thay cho Hiệp định NAFTA) một điều khoản cho phép hai nước còn lại có thể huỷ hiệp định 3 bên và ký hiệp định thương mại tự do song phương nếu một trong ba thành viên USMCA ký hiệp định thương mại tự do với nước có nền kinh tế «phi thị trường», hàm ý chỉ Trung Quốc. Bộ trưởng Ross còn tiết lộ, Mỹ sẽ đưa điều khoản này vào các hiệp định thương mại tự do đang đàm phán với Nhật Bản và EU, nhằm mục đích gây sức ép tối đa lên Trung Quốc.
2) «Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại»
Về cách tiếp cận, chính sách kinh tế của Trump sau khi nhậm chức không khác mấy so với người tiền nhiệm Ronald Reagan cách gần 40 năm trước với chính sách kinh tế Reaganomics, đó là: Ở trong nước, Reagan cắt giảm chi tiêu của chính phủ nhằm giảm thâm hụt ngân sách, trong khi giảm mạnh thuế doanh nghiệp từ 48% xuống còn 34% nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu, sản xuất. Còn người dân, thuộc tất cả các giới được miễn giảm mạnh thuế cá nhân, trong đó giới giàu có, trung lưu, được hưởng lợi nhất, nhằm khuyến khích tiêu dùng trong nước. Ngoài ra Reagan còn tìm cách tăng lãi suất đồng USD trong nước rất cao, có lúc lên tới 21,5% nhằm thu hút tiền từ trong nước Mỹ và từ khắp thế giới với hai mục tiêu: (i) Tái cấu trúc và hiện đại nước Mỹ; (ii) Đổ tiền vào cuộc chạy đua vũ trang với Liên Xô.
Trong thời kỳ Reagan, ngoài chuyện củng cố sức mạnh kinh tế, Mỹ còn «đánh gục» Liên Xô bằng các đòn «hội đồng» như cùng OPEC phối hợp hạ giá dầu để triệt hạ nền kinh tế Liên Xô vốn phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu dầu, đồng thời buộc Liên Xô phải tham gia vào cuộc chạy đua vũ trang với Mỹ và cả khối NATO, cũng như gài bẫy để Liên Xô dính vào «cú lừa thế kỷ» về sáng kiến «Chiến tranh các vì sao» của Mỹ. Điều này đã buộc Gorbachev phải đi vào hòa dịu, giải trừ quân bị với Mỹ, rồi tiến tới «tự giải thể» khối quân sự Warsaw Pact, khối kinh tế Comecon giữa Liên Xô và các nước Đông Âu, cũng như Liên Bang Xô viết trong giai đoạn cuối những năm 1980, đầu những năm 1990.
Về cơ bản, Trump cũng có cách tiếp cận về kinh tế và quân sự tương tự Reagan, nhưng có một số điều chỉnh do bối cảnh quốc tế hiện nay, cũng như tương quan, so sánh sức mạnh tổng thế giữa Mỹ với các đồng minh, địch thủ cũng có những thay đổi căn bản.
Về kinh tế, với khẩu hiệu «Nước Mỹ trên hết» (America First) và cách làm quyết liệt đi đôi giữa nói và làm, Trump đang tìm cách lấy lại sức mạnh kinh tế cho nước Mỹ thông qua một loạt biện pháp chính như: (i) Giảm mạnh thuế doanh nghiệp từ 35% xuống còn 21%; (ii) Giảm đồng loạt thuế thu nhập cá nhân, với tổng số thuế cắt giảm lên tới 1.500 tỷ USD trong thời gian tám năm từ 2018-2025: (iii) gỡ bỏ đáng kể các luật lệ, rào cản đối với doanh nghiệp; (iv) rút khỏi hoặc bỏ qua các hiệp định thương mại đa phương, đàm phán lại các hiệp định tự do thương mại song phương, nhấn mạnh đến yếu tố «công bằng», đảm bảo quyền tiếp cận thị trường nước ngoài tốt hơn cho hàng hóa Mỹ; (v) Gây sức ép bằng hình thức thuế quan để ép các công ty Mỹ và công ty nước ngoài chuyển dây chuyền sản xuất, công nghệ hoặc mở nhà máy trên đất Mỹ.
Với hàng loạt biện pháp mang tính quyết liệt, và phần nào đó khá cực đoan, Trump đã ghi được bảng thành tích kinh tế khá tốt dẫu mới cầm quyền chưa được hai năm. Cụ thể là:
– Tỷ lệ thất nghiệp tính đến đầu tháng 10/2018 giảm xuống còn 3,7%, mức thấp nhất trong 50 năm qua.
– Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2017, năm đầu tiên Trump nắm quyền, là 2,3%, cao hơn rất nhiều so với tốc độ 1,5% năm 2016 trước đó. Con Quý II, tốc độ tăng trưởng đạt 4,2%, mức cao nhất kể từ năm 2014.
– Lòng tin của người tiêu dùng và doanh nghiệp hiện ở mức cao nhất tính từ thời điểm năm 2000.
– Chỉ số công nghiệp Dow Jones của thị trường chứng khoán Mỹ hiện vào khoảng 26.500 điểm, tức cao khoảng 33% so với đỉnh cao 20.000 điểm dưới thời Obama.
Thành tích kinh tế này trái ngược với đà đi xuống của kinh tế Trung Quốc, cũng như thực trạng tương đối ảm đạm của hầu hết các nền kinh tế lớn khác.
Trong lĩnh vực an ninh-quốc phòng, Trump không chỉ mạnh tay chi tiêu cho quốc phòng với ngân sách quốc phòng năm 2018 và 2019 lần lượt là 640 tỷ và 716 tỷ USD, tức gấp khoảng 5 lần so với ngân sách quốc phòng lớn thứ hai thế giới của Trung Quốc. Không chỉ một mình tăng ngân sách quốc phòng, Trump còn bằng mọi cách gây sức ép buộc các đồng minh chủ chốt như Hàn Quốc, Nhật, và các nước đồng minh trong NATO tăng ngân sách quốc phòng để tạo sức mạnh cộng hưởng và đã thành công ở mức độ nhất định khi một số nước châu Âu thành viên NATO đẩy nhanh mức chi ngân sách quốc phòng từ mức trên dưới 1% hiện nay lên mức 2% tổng GDP trước năm 2024. Cách lập luận của Trump rất đơn giản, nhưng hiệu quả: Nếu muốn dựa vào ô an ninh của Mỹ thì trước hết các đồng minh phải thực sự quan tâm đến củng cố quốc phòng của mình thông qua việc tăng ngân sách cho lĩnh vực này. Nếu như đến an ninh của mình mà họ cũng không quan tâm thì cũng chẳng có lý do để Mỹ phải bận tâm.
Đáng chú ý là cách tiếp cận và tìm cách xích lại gần Nga của chính quyền Trump. Trong nội bộ Mỹ, không khí và quan hệ thù địch với Nga hiện khá cao do những cáo buộc Nga can thiệp cuộc bầu cử 2016 để Trump lên nắm quyền vẫn chưa được giải tỏa. Tuy nhiên, Trump vẫn nhắm đến Nga với nhiều mục tiêu khác nhau:
Thứ nhất, Trump cho rằng Nga tuy bị suy yếu nhiều, nhưng xét từ góc độ quân sự, Nga vẫn là cường quốc quân sự duy nhất có thể đưa nước Mỹ «trở về thời kỳ đồ đá» nếu xảy ra xung đột quân sự. Do đó, để quan hệ Mỹ-Nga ở tình trạng đối đầu lâu dài sẽ không có lợi.
Thứ hai, việc xích lại gần Nga sẽ làm cho các nước châu Âu thành viên NATO lo ngại và do vậy không cần gây thêm sức ép cũng buộc họ tự tăng ngân sách quốc phòng.
Thứ ba, việc đi với Nga còn là cách để Mỹ tạo sức ép tối đa lên Trung Quốc – quốc gia được xem như địch thủ chiến lược lớn nhất của Mỹ vào lúc này. Nhìn cách Trump đi với Nga để tạo sức ép lên Trung Quốc lúc này thấy không khác mấy so với cách mà Mỹ dưới thời Nixon và Kisinger tìm cách khai thông quan hệ với Trung Quốc trong những năm 1970 để cô lập và tạo sức ép tối đa lên Liên Xô, để rồi nước này đi vào con đường thỏa hiệp với Mỹ và tự tan rã vào năm 1991.
Hiện còn quá sớm để đánh giá hết những tác động từ các bước đi của Trump trong việc củng cố sức mạnh Mỹ. Ngay cả thời Reagan, dù ra khỏi Chiến tranh Lạnh với tư cách người chiến thắng, nhưng nước Mỹ cũng «thương tích đầy mình», chẳng hạn như nợ công cao, sức cạnh tranh của nền kinh tế suy giảm… Còn Trung Quốc là cường quốc thứ hai, có nhiều sức mạnh vượt trội chứ không phải là cường quốc chỉ dựa vào sức mạnh quân sự và lệ thuộc và dầu khí như Liên Xô trước kia. Tuy nhiên, các tác động của cuộc chiến thương mại này với cả hai, đặc biệt là với Trung Quốc, với nền kinh tế thế giới và các cấu trúc khu vực và toàn cầu thì ngày càng rõ nét.
V. Cuộc chiến thứ năm: Xây dựng một trật tự quốc tế mới
Hoàn toàn không quá lời khi nói rằng trật tự thế giới hình thành từ thời hậu Thế chiến II đến nay với các thiết chế trụ cột như Liên Hợp Quốc, NATO, WTO, IMF, WB, cùng nhiều thoả thuận quốc tế khác… là trật tự trong đó Mỹ đóng vai trò «Kiến trúc sư trưởng», là «người khởi xướng», và cũng là người được hưởng lợi chính từ trật tự này. Chắc chắn Mỹ sẽ không có bất cứ vấn đề gì với hệ thống và các thiết chế này chừng nào mà vai trò và địa vị số 1 thế giới của Mỹ vẫn được duy trì và đảm bảo.
Tuy nhiên, từ đầu những năm 2000 khi Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ đe dọa vị thế siêu cường số 1 thế giới của Mỹ và đồng thời sức mạnh của Mỹ suy giảm tương đối so với Trung Quốc và các cường quốc khác thì Trump và ê-kíp của mình, ngay từ khi bắt đầu tham gia tranh cử Tổng thống, lại đổ lỗi cho chính hệ thống quốc tế mà Mỹ đã góp tay xây dựng nên là «tội đồ» của những yếu kém của nước Mỹ. Họ cho rằng đã đến lúc cần phải đặt lại vấn đề, xem xét lại một cách căn bản toàn bộ hệ thống quốc tế và các thiết chế cũ xem các thiết chế này có còn phù hợp với lợi ích của Mỹ nữa hay không, tức còn có giá trị trong việc giúp Mỹ duy trì ngôi vị bá chủ thế giới của mình. Theo quan điểm của chính quyền Trump, các thiết chế do chính Mỹ lập ra trước kia chỉ phù hợp với bối cảnh cũ, nhưng nay các thiết chế này đã đóng xong vai trò lịch sử, không còn phù hợp, thậm chí đi ngược lại với lợi ích của Mỹ thì Mỹ cần đặt lợi ích quốc gia của mình lên trên (America First) và mạnh tay «vứt bỏ» các cam kết không cần thiết.
Ngay từ năm 1987 học giả Mỹ Paul Kennedy đã viết cuốn sách «Sự thăng trầm của các cường quốc» (The Rise and Fall of the Great Powers) trong đó cho rằng một trong những nguyên nhân khiến các cường quốc suy vong là do đế quốc trải rộng và các cường quốc này thực thi các cam kết quốc tế vượt quá khả năng của mình. Tác giả cũng đưa ra lời cảnh báo để Mỹ không đi vào con đường tương tự. Cảnh báo này cũng trùng hợp với tư duy của Trump khi cho rằng các nước khác được hưởng lợi bởi hệ thống quốc tế hiện nay phải có nghĩa vụ đóng góp nhiều hơn và không có lý gì để Mỹ phải sử dụng tiền đóng thuế của người dân bảo vệ cho những quốc gia có mức thu nhập đầu người thậm chí còn cao hơn của nước Mỹ.
Như vậy, có thể thấy Trump thực hiện một chính sách tương đối nhất quán cả về đối nội, lẫn đối ngoại: Đó là tìm cách làm nước Mỹ mạnh lên từ bên trong và đặt lợi ích quốc gia lên trên các cam kết quốc tế. Đáng chú ý là trong quá trình xem xét lại các cam kết quốc tế của Mỹ, Trump nhận thấy nước Mỹ có quá nhiều cam kết quốc tế «vô bổ», gây tốn kém không ít cho ngân sách liên bang.
Việc tấn công tổng lực vào một loạt các thiết chế quốc tế lớn như Liên hợp quốc, UNESCO; vào các hiệp ước, các thiết chế lâu đời với đồng minh, láng giềng như NATO, nhóm G-7, NAFTA; vào các thỏa thuận với đối tác, bạn bè như TPP (chuẩn bị bước vào giai đoạn ký kết)… ngay từ ngày đầu tiên bước chân vào Nhà Trắng đã biến Trump thành nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa quốc gia nhiệt thành, «kẻ» chủ trương ủng hộ nghĩa biệt lập, và là một trong những nhà lãnh đạo Mỹ «đáng ghét» nhất trên thế giới. Tháng 1/2018, Viện thăm dò dư luận Gallup tiến hành khảo sát ý kiến của người dân 134 nước trên thế giới và kết quả là tỷ lệ trung bình ủng hộ lãnh đạo Mỹ giảm mạnh từ 48% năm 2016 xuống còn 30% vào 1/2018.
Tuy nhiên, Trump dường như có một mục tiêu và lộ trình được lập trình từ trước nên tỏ ra không mấy bận tâm vào việc lãnh đạo hay người dân các nước nghĩ về mình hay nước Mỹ, miễn là việc mình làm phục vụ lợi ích của nước Mỹ, đặt nước Mỹ lên trên hết (America First). Dù chưa định hình rõ nét, nhưng có thể thấy sơ bộ một số bước đi chính của Trump trong việc «xoá bàn cờ làm lại», đặt ra luật chơi mới với 5 bước đi sau:
1) Một là, rút nước Mỹ ra khỏi các thiết chế / cam kết quốc tế không phù hợp với lợi ích của nước Mỹ
Rõ nhất trong hai năm đầu tiên cầm quyền là Trump rút khỏi các thoả thuận «đình đám» như Hiệp định thương mại Xuyên Thái Bình Dương TPP đã được hoàn tất vào phút chót chỉ chờ được phê chuẩn; cắt đóng góp của Mỹ và rút khỏi Tổ chức Văn hóa, Giáo dục và Khoa học của Liên hợp Quốc UNESCO; Hiệp định chống biến đổi khí hậu; rút khỏi Thoả thuận hạt nhân P5+1 ký năm 2015 với Iran; Hội đồng nhân quyền… Chính từ các hành động này nên Trump bị xem là người theo đuổi chủ nghĩa đơn phương, làm cho Mỹ bị cô lập trên quốc tế, trái với cách tiếp cận đa phương, can dự tích cực của người tiền nhiệm.
Trong quyết định rút khỏi TPP, chính quyền Trump cho rằng ngành công nghiệp chế tạo của Mỹ sẽ bị ảnh hưởng và Mỹ sẽ bị mất nhiều việc làm phổ thông do doanh nghiệp sẽ tìm cách chuyển sản xuất sang những nước thành viên có lương thấp trong TPP. Còn với Hiệp định chống biến đổi khí hậu, Trump ngay từ đầu đã cho rằng các bằng chứng khoa học về biến đổi khí hậu là lòe bịp (a hoax) và không đáng tin cậy, và việc thực hiện các cam của Thỏa thuận chống biến đổi khí hậu vừa gây tốn kém cho doanh nghiệp, vừa làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế Mỹ. Với Iran, Mỹ cho rằng thỏa thuận P5+1 chỉ giúp làm chậm lại chứ không thể giúp cản bước Iran nghiên cứu, sản xuất vũ khí hạt nhân. Đáng chú ý, việc áp đặt cấm vận xuất khẩu dầu của Iran còn nhằm vào Trung Quốc nước đầu tư tới 106 tỷ USD vào ngành dầu khí Iran, cũng như giúp ngành xuất khẩu dầu và khí hoá lỏng của Mỹ «cất cánh» sau khi Mỹ có đột biến về tăng sản lượng dầu đá phiến và hoàn tất việc lắp đặt đường ống dẫn dầu Keystone nối từ Alberta (Canada) tới tận Cảng Arthur (Texas) miền Nam nước Mỹ.
2) Hai là, gây sức ép, đàm phán lại các hiệp định/thoả thuận/định chế cũ
Đáng chú ý nhất là thành công của Trump trong việc đàm phán lại Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ NAFTA với tên gọi mới là Hiệp định USMCA giữa Mỹ, Mexico và Canada ký ngày 30/9/2018 vừa qua. Các cuộc đàm phán để đi đến Hiệp định mới USMCA này cho thấy Trump quả là một cao thủ về đàm phán quốc tế. Trước hết Trump không tìm cách đàm phán ba bên đồng thời, mà tiến hành hai cuộc đàm phán riêng rẽ với Mexico và Canada, trong đó nhằm vào Mexico là mắt xích yếu nhất. Đồng thời trong suốt quá trình đàm phán Mỹ không ngừng gây sức ép, công kích công khai lãnh đạo Canada. Việc đạt được thỏa thuận trước với Mexico đã gây sức ép rất lớn và đặt Canada vào thế phải kết thúc đàm phán với điều kiện của Trump nếu không sẽ bị gạt ra rìa.
Với lợi thế có được trong tay USMCA, các bước tiếp theo của Mỹ có thể nhìn thấy trước là Mỹ sẽ tiến hành hai cuộc đám phán song phương đồng thời với Nhật và EU, trong đó Mỹ sẽ tìm cách cài tiếp «viên thuốc độc», tức tìm cách ngăn không để cho hai nền kinh tế lớn này ký thỏa thuận thương mại tự do với Trung Quốc. Sau khi có được thoả thuận thương mại với Nhật Bản và EU, bước tiếp theo là Mỹ, lúc này đã ở thế thượng phong, gây tiếp sức ép lên Trung Quốc, buộc nước này phải mở cửa và cải cách theo các điều kiện do Mỹ đặt ra. Đối với WTO, nếu không đáp ứng các điều kiện do Mỹ đặt ra, thậm chí không loại trừ khả năng Mỹ sẽ vận động Nhật, EU và các nước khác lập ra chế định mới thay thế cho tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này.
Trong các vấn đề quân sự hay quan hệ với đồng minh trong NATO, G-7 Trump cũng tỏ ra «thờ ơ» bề ngoài, nói lấp lửng hay nước đôi vê các cam kết bảo vệ đồng minh của Mỹ. Mục đích của Trump là gây sức ép buộc đồng minh tăng ngân sách quốc phòng, chia sẻ nhiều hơn gánh nặng và trách nhiệm an ninh quốc tế với Mỹ, song song với việc ép các đồng” tự nguyện” mở cửa thị trường, thực thi các biện pháp nhằm giúp Mỹ giảm thâm hụt thương mại.
3) Ba là, cắt giảm cam kết tài chính, gây sức ép cải tổ các định chế quan trọng
Một trong những tổ chức quốc tế lớn nhưng nhận nhiều chỉ trích nhất của chính quyền Trump về sự quan liêu, quản lý yếu kém… là Liên Hợp Quốc (LHQ). Mỹ sở dĩ có tiếng nói quan trọng ở LHQ vì Mỹ là quốc gia đóng góp ngân sách lớn nhất, lên tới 22% tổng ngân sách hàng năm cho tổ chức này (5,6 tỷ USD năm 2017) và là thành viên của Hội đồng Bảo an.
Sự bất bình của Mỹ cũng có lý do riêng. Tuy đóng góp nhiều cho ngân sách của LHQ song ảnh hưởng của Mỹ tại đây lại không như Mỹ mong muốn, đặc biệt trong các cuộc bỏ phiếu liên quan đến tranh chấp Israel-Palestine. Ngoài ra, Mỹ thấy nhiều nước không có sự đóng góp tương xứng vào ngân sách LHQ so với tỷ lệ GDP của họ trong tổng GDP toàn cầu. Song song với sức ép về chính sách kêu gọi LHQ cải tổ trong 3 lĩnh vực là Quản lý, An ninh và Phát triển Mỹ cũng đồng thời tuyên bố cắt giảm đóng góp lên tới 5% tổng ngân sách của LHQ (285 triệu USD), chủ yếu dành cho lĩnh vực gìn giữ hòa bình bắt đầu từ năm 2018.
4) Bốn là, tấn công trực diện các thiết chế mới ra đời của đối phương
Đối với Mỹ hiện nay, Chiến lược Vành đai, Con đường (BRI) và Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) của Trung Quốc là những thiết chế tạo ra các thách thức đối với Mỹ về nhiều mặt. Với BRI, Mỹ lo ngại sự hình thành của một thiết chế mới, một vành đai phát triển quốc tế mới không theo các chuẩn mực do Mỹ đặt ra, giảm lệ thuộc vào Mỹ và phương Tây, trong khi lại lệ thuộc vào Trung Quốc về đầu tư, công nghệ…
Với AIIB, Mỹ lo ngại nhất về (i) sự thiếu khách quan trong các quyết định cho vay, cho rằng AIIB sẽ thiên vị, chỉ cung cấp tín dụng cho những nước có quan hệ tốt với Bắc Kinh; (ii) Khả năng quản trị rủi ro không tốt, vượt quá khả năng trả nợ của những nước đi vay có thể khiến họ hoặc rơi vào tình trạng phá sản hoặc bị lệ thuộc về tài chính vào Trung Quốc; (iii) Có thể giúp nước đi vay đầu tư tăng trưởng tốt trong ngắn hạn, nhưng lại thiếu cơ sở cho phát triển ổn định và bền vững trong dài hạn.
5) Năm là, lập ra các thiết chế, các định chế mới
Các đề nghị lập thiết chế mới hiện nay chưa nhiều, mới thấy rõ nhất là sáng kiến về «Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương» thay thế cho Chiến lược tái cân bằng của Mỹ ở Đông Nam Á. Có thể do chính quyền Trump còn đang bận tâm vào các vấn đề nội bộ, hoặc Mỹ cho rằng có thể tận dụng một số cơ chế cũ nhưng có những điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới cũng như lợi ích của Mỹ.
Dù mới chỉ ở dạng ý tưởng và còn thiếu nhiều chi tiết, nhưng «Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương» của Mỹ hiện vấp phải nhiều phản ứng trái chiều, đặc biệt từ Nga và Trung Quốc, những nước cho rằng trong khu vực hiện đang có nhiều cơ chế hữu dụng như EAS, ARF, ADMM+… để xử lý các vấn đề khu vực và không nhất thiết phải lập ra các cơ chế mới. Điều này cho thấy cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn trên phạm vi khu vực và toàn cầu đang ngày một rõ nét và có thể đưa quan hệ quốc tế đến chỗ chia rẽ, phân cực như trong thời kỳ Chiến tranh lạnh trước kia.
Nhìn tổng thể, cuộc chiến của Trump để xây dựng một trật tự quốc tế mới lần này chắc chắn sẽ khó khăn hơn nhiều lần so với công việc Mỹ đã làm cách đây trên 70 năm. Khi đó Mỹ ở thế thượng phong với sức mạnh tổng hợp vượt trội so với cả đồng minh lẫn đối thủ. Còn hiện tại thì thế và lực của Mỹ, tuy mạnh nhưng không còn ở thế áp đảo, khuynh loát các quốc gia khác. Ngoài ra, các đối thủ của Mỹ cũng sẽ không ngồi yên khoanh tay chịu trận.
Và cũng không khó để nhận ra nhiều nước bắt đầu toan tính, tìm bước đi, lối thoát cho mình nhằm tránh rơi vào thế kẹt trong bối cảnh cuộc đối đầu, cạnh tranh địa-chiến lược Mỹ-Trung và «bóng ma» cuộc Chiến tranh Lạnh mới 2.0 với các vòng xoáy bất ổn, chia rẽ và phân cực đang ngày một hiện rõ./.
TS Hoàng Anh Tuấn
là cựu Giám đốc
Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao,
Học viện Ngoại giao Việt Nam.
Bài viết thể hiện quan điểm cá nhân của tác giả.

Share: