Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2019

PS2b - Những bài học từ sự kiện Chúa phục sinh




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 2 Mùa Phục Sinh

(28-4-2019)

Bài đào sâu

Những bài học từ sự kiện Chúa phục sinh



ĐỌC LỜI CHÚA

  Cv 5,12-16: (12) Nhiều điềm thiêng dấu lạ được thực hiện trong dân nhờ bàn tay các tông đồ. Mọi tín hữu đều đồng tâm nhất trí, thường hội họp tại hành lang Salômon (…). (14) Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông.

  Kh 1,9-11a.12-13.17-19: (17b) Ta là Đầu và là Cuối. (18) Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết và nay tôi đều đến muôn thuở muôn đời, và Ta giữ chìa khóa của tử thần và âm phủ.


  TIN MỪNG: Ga 20,19-31

Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ

(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Chúc các anh em được bình an! (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: Chúc các anh em được bình an! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. (22) Nói xong Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.

(24) Một người trong nhóm mười hai, tên là Tôma, cũng gọi là Điđimô, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: Chúng tôi đã được thấy Chúa! Ông Tôma đáp: Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin. (26) Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông, các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Chúc anh em được bình an! (27) Rồi Người bảo ông Tôma: Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy, đừng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin. (28) Ông Tôma thưa Người: Lạy Thiên Chúa của con! Lạy Thiên Chúa của con! (29) Đức Giêsu bảo: Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin.

(30) Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ ấy không được ghi chép trong sách này, (31) còn những điều chép ở đây để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.




CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1.      Tâm trạng của các tông đồ trước khi Chúa hiện ra thế nào? Chúng ta có gặp tâm trạng như thế không? chúng ta phản ứng thế nào? 
2.      Thân xác Chúa Kitô sau khi sống lại có gì khác lạ? Điều đó có ý nghĩa gì đối với chúng ta? 
3.      Bí tích giải tội liên quan thế nào với cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa? Tại sao Chúa lại lập bí tích giải tội ngay ngày phục sinh?


Suy tư gợi ý:

1.  Tâm trạng của các tông đồ sau khi Đức Giêsu chết

Sau khi Đức Giêsu bị bắt và bị đóng đinh thập giá, tinh thần của các tông đồ bị dao động mãnh liệt, niềm tin và lòng can đảm của các ông như bị mất hẳn. Từ lúc khởi sự theo Ngài tới bữa Tiệc Ly, suốt ba năm ấy, các ông đã nhìn thấy những dấu chứng rất chắc chắn chứng tỏ Ngài là Đấng Mêsia mà dân Do Thái hằng trông đợi từ mấy trăm năm nay, các ông vẫn luôn luôn tin tưởng rằng sẽ tới lúc Ngài xuất đầu lộ diện thành một vị tướng tài ba với binh hùng tướng mạnh để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị tàn bạo của Rôma. Và các ông cũng nuôi hy vọng rằng sau khi Ngài lên ngôi vua, các ông sẽ trở thành những vị quan lớn trong triều đình của Ngài. Được làm quan cai trị 12 chi tộc Israel  là một mơ ước không tưởng nhưng luôn nằm sẵn trong vô thức của những người dân thấp cổ bé miệng như các ông, nay nhờ theo Đức Kitô đã trở thành một hy vọng dường như nằm trong tầm tay. Thật vậy, ngay trong bữa tiệc ly, các ông vẫn còn tranh luận xem ai là người cao trọng hơn (x. Lc 22, 24).

Vì thế, khi Đức Giêsu bị bắt, các ông bắt đầu hơi nản chí, nhưng vẫn còn hy vọng rằng Ngài chỉ giả bị bắt, và với quyền phép của Ngài, Ngài sẽ thoát khỏi cái chết dễ dàng và sẽ phục hưng lại. Nhưng khi thấy Ngài thật sự bị chết một cách quá nhục nhã trên thập giá, và đã bị chôn trong mồ, nghĩa là rõ ràng Ngài đã chết, thì giấc mơ làm quan kia hoàn toàn sụp đổ, thay vào đó là nỗi sợ hãi bị người Do Thái ruồng bắt. Từ trưa thứ sáu Đức Giêsu chịu nạn đến sáng ngày thứ nhất trong tuần lễ kế tiếp, các ông sống trong hoang mang, sợ hãi và thất vọng.

Sáng ngày thứ nhất, các ông nghe phong thanh rằng Đức Giêsu đã sống lại, nguồn tin đến từ mấy phụ nữ khó mà tin chắc chắn được. Giữa các ông cũng có những chứng từ nhưng không đủ tin: Phêrô và Gioan thấy ngôi mộ trống, còn hai môn đệ từ Emmau về nói rằng họ vừa nhận ra Ngài thì Ngài biến mất. 

Chiều hôm đó, khi màn đêm bắt đầu buông xuống, các ông tụ họp lại để hỏi thăm nhau, bàn tán về những biến cố xảy ra trong ngày, và cũng để nương vào nhau cho đỡ sợ. Lúc đó cửa đóng kín vì các ông sợ người Do Thái. Các ông đang bàn luận thì Đức Giêsu hiện ra.

Mặc dù nghe phong thanh rằng Ngài đã sống lại, nhưng khi Ngài hiện ra, các ông không khỏi kinh ngạc, vì đây vốn là một chuyện không thể tin được. Theo Tin Mừng Luca (24,36-43) thì khi Ngài hiện ra, các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma, và cho dù Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem. các ông vẫn chưa tin, đến nỗi Ngài phải ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông để các ông tin (x. Lc 24,42-43)

Chúng ta cần phải thông cảm với các ông, nhất là ông Tôma, vì đối với bất kỳ ai, sống lại từ cõi chết là điều quá sức lạ lùng, cần phải đích thân sờ mó vào những dấu đinh, vào cạnh sườn thì mới có thể tin được. Vả lại, có thật sự chứng nghiệm Ngài sống lại bằng sự sờ mó cụ thể như thế, các ông mới dám mạnh dạn làm chứng - bằng chính mạng sống mình - rằng Ngài đã thật sự sống lại.



2.  Những bài học

Từ bài Tin Mừng trên, chúng ta chúng ta rút ra những bài học sau đây:

a)     Trong cuộc đời, niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu nhiều khi cũng bị thử thách một cách nặng nề như các tông đồ xưa. Chúng ta cũng bị nao núng tinh thần, bị chán nản thất vọng, thấy niềm tin của mình tưởng rằng vững chắc bỗng hóa thành như chuyện không tưởng. Nhưng quả thật đối với Thiên Chúa, có nhiều chuyện không thể tin được mà lại xẩy ra. Điều quan trọng là trong khi bị thử thách, chúng ta cứ kiên tâm chờ đợi, đừng vội làm điều gì ngược với lương tâm, với ý Chúa. Tất cả các vị thánh đều phải trải qua những đêm tối của đức tin. Chúa muốn như vậy, đức tin có bị thử thách thì mới trưởng thành và trở nên vững chắc được. Sau cơn thử thách ấy, đức tin hoặc sẽ bị mất đi, hoặc sẽ được trui luyện thành bền vững hơn. Vấn đề nằm ở sự kiên nhẫn: «Ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát» (Mt 24,13).

b)     Thân xác của Đức Kitô sau khi sống lại là một thân xác vinh quang, khác với thân xác của Ngài trước khi chết. Thân xác vinh quang của Ngài không còn bị lệ thuộc vào những định luật vật lý thông thường: chẳng hạn cửa đóng kín mà vẫn vào được (x. Ga 20,19), nhưng không phải là bóng ma không có thể chất, vì Ngài vẫn có thể ăn uống như người thường (x. Lc 24,43), vẫn có thể rờ thấy một cách cụ thể (x. Ga 20, 20), và nhất là thân xác đó sẽ chẳng bao giờ phải đau khổ, phải chết nữa. Đó chính là tính chất của thân xác chúng ta trong tương lai, sau khi chúng ta được sống lại từ cõi chết.

Thân xác vinh quang sau khi phục sinh là hình ảnh của những tâm hồn đã được sống lại về mặt tinh thần trong Đức Kitô. Đó là những tâm hồn đã chết cho thế gian, xác thịt, tội lỗi, và chỉ sống cho Thiên Chúa hay Đức Kitô và tha nhân, tâm hồn họ không còn bị lệ thuộc vào ngoại cảnh, không còn bị điên đảo vì những biến đổi của đời thường nữa

Tuy nhiên, họ không phải là những con người siêu thế, sống ngoài vòng tục lụy, mà họ vẫn luôn luôn sống giữa thế gian, làm tất cả mọi việc mà mọi người vẫn làm. Họ vẫn phải đương đầu với tất cả mọi khó khăn mà mọi người vẫn phải đối đầu. Nhưng họ vẫn không bị những khó khăn hay nghịch cảnh vùi dập, làm họ mất bình an. Họ vẫn luôn luôn tìm được bình an và niềm vui trong mọi hoàn cảnh dù khó khăn đến đâu. Tình yêu giúp cho họ thâm nhập vào tất cả những tình huống đời sống thực tế của tha nhân để họ có thể hiểu và giúp đỡ mọi người tùy theo nhu cầu. Vững tin vào Chúa, gắn bó và luôn luôn sống với Chúa là nguồn sức mạnh và năng lực, đó là bí quyết tạo sức mạnh của họ.

c)      Sinh xuống trần, sống như người trần, rao giảng cho người trần, chết và sống lại vì người trần, việc cứu chuộc nhân loại của Đức Giêsu không phải đến đây là hoàn tất. Sứ mạng của Ngài đã hoàn thành được phần chủ yếu, nhưng chưa hoàn tất. Sứ mạng của Ngài còn dang dở cần được các tông đồ và Giáo Hội Ngài tiếp tục. Vì thế, Ngài nói: «như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em» (Ga 20,21). Ngài không chỉ truyền cho chúng ta sứ mạng rao giảng Tin Mừng để cứu rỗi thế giới như Ngài đã làm, mà còn ban Thánh Thần và quyền bính thiêng liêng như Ngài đã từng nhận từ Chúa Cha cho những ai lãnh nhận sứ mạng của Ngài (x. Mt 16,17-18).

Ngài trao việc tiếp tục sứ mạng của Ngài cho các tông đồ, cũng chính là cho chúng ta, tất cả mọi Kitô hữu, đặc biệt cho những ai nhận ra hay tự ý thức về lời mời gọi của Ngài. Mọi Ki-tô hữu nên ý thức lại về lời mời gọi này trong cuộc sống của mình.




CẦU NGUYỆN

Chúa đã phục sinh. Xin cho con cũng được phục sinh như Chúa, nhất là trong tình trạng hiện nay của tâm hồn con: tâm hồn con kể như đã chết hay bệnh hoạn vì tính kiêu ngạo, hèn nhát, ích kỷ, hay vì thiếu niềm tin và tình yêu. Nhưng trước hết, xin cho con biết thành thật với chính mình và ban cho con can đảm để nhận ra tình trạng suy yếu hay đã chết của tâm hồn con, và giúp con quyết tâm chỗi dậy nhờ vào sức mạnh vô biên của Chúa. Amen.

Nguyễn Chính Kết


Bấm vào đây để trở về bài chia sẻ:
«Con người mới» sống bằng đức tin

Share:

PS2a - «Con người mới» sống bằng đức tin




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 2 Mùa Phục Sinh

(28-4-2019)


«Con người mới» sống bằng đức tin



ĐỌC LỜI CHÚA

  Cv 5,12-16: (12) Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các Tông Đồ. (14) Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông.

  Kh 1,9-11a.12-13.17-19: (17) «Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. (18) Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời.

  TIN MỪNG: Ga 20,19-31

Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ

(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Dothái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: «Bình an cho anh em!» (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: «Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em». (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: «Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ».

(24) Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Điđymô, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: «Chúng tôi đã được thấy Chúa!» Ông Tôma đáp: «Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin». (26) Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: «Bình an cho anh em». (27) Rồi Người bảo ông Tôma: «Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin». (28) Ông Tôma thưa Người: «Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!» (29) Đức Giêsu bảo: «Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!»

 (30) Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.




CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1. Thần Khí và đức tin đóng vai trò quan trọng thế nào trong đời sống mới của «con người mới» mà chúng ta phải trở thành?

2. Việc Tôma đòi hỏi phải thấy mới tin là một đòi hỏi hợp lý hay quá đáng? Kinh nghiệm về Thiên Chúa có quan trọng trong việc hình thành đức tin không?

3.  Đức tin mạnh mẽ được hình thành như thế nào? Qua những giai đoạn nào? Ta phải làm gì để có được một đức tin mạnh mẽ?


Suy tư gợi ý:

1. «Con người mới» sống bằng đức tin

Đức Giêsu đã chết và phục sinh là một biểu tượng điển hình cho việc biến đổi từ «con người cũ» sang «con người mới». Nơi chúng ta, «con người cũ» là con người quan niệm, suy tư và hành động theo kiểu trần gian, theo sự khôn ngoan trần gian, lấy những thực tại trần gian (danh, lợi, thú, địa vị, quyền lực, của cải…) làm mục đích. Với chiều hướng đó, «con người cũ» là con người yếu đuối, chỉ có được thứ hạnh phúc chóng qua, và thường phải sống trong đau khổ. 

Còn «con người mới» là con người quan niệm, suy tư và hành động theo Thần Khí, theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa, theo sự hướng dẫn của đức tin, lấy tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân làm động lực, lấy lợi ích của Thiên Chúa và tha nhân làm mục đích. Vì thế, «con người mới» là con người mạnh mẽ, luôn hưởng được một niềm hạnh phúc thường hằng xuất phát từ đáy tâm hồn. Tất cả những quan niệm, suy tư, hành động và tình trạng hạnh phúc của «con người mới» ấy đến từ đức tin. Vì thế, đức tin mạnh mẽ và thực tiễn là một yếu tố quan trọng cấu thành «con người mới» ấy. Vấn đề là: làm sao có được đức tin mạnh mẽ?



2.  Con người mới sống bằng Thần Khí

Trong công cuộc cứu chuộc và thánh hóa nhân loại, Thánh Thần là người đạo diễn tất cả mọi chuyện. Vì thế, muốn hoàn thành vai trò và sứ mạng của mình, Đức Giêsu, các tông đồ và những ai theo Ngài đều phải được Thánh Thần thúc đẩy và hướng dẫn, vì thế, phải «tràn đầy Thánh Thần» (x. Cv 2,4; 4,31; 13,52). Trong giai đoạn tới, các tông đồ tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu: «Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em» (Ga 20,21), nên các ông cũng cần phải tràn đầy Thánh Thần. Do đó, Đức Giêsu nói với các ông: «Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần» (Ga 20,22). Thánh Thần cũng chính là yếu tố quan trọng làm nên «con người mới»: «Anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới (…) để thật sự sống công chính và thánh thiện» (Ep 4,23-24). Nhưng muốn nhận được Thánh Thần hay Thần Khí của Thiên Chúa, điều quan trọng là phải có đức tin: «Nhờ đức tin, chúng ta nhận được ơn Thiên Chúa đã hứa tức là Thần Khí» (Gl 3,14).



3.  Để có một đức tin mạnh mẽ

Là người Kitô hữu, ai trong chúng ta cũng đều có đức tin. Nhưng rất nhiều người trong chúng ta vẫn chưa trở thành «con người mới». Vì tuy có đức tin, nhưng đức tin của ta nhiều khi chỉ là sự chấp nhận xuông và tuyên xưng ngoài miệng một số tín điều nào đó. Đức tin kiểu này không ảnh hưởng bao nhiêu đến cuộc sống của ta: kẻ tin theo kiểu này dường như chẳng thấy nội tâm mình có gì thay đổi so với kẻ không tin. Đức tin đích thực không phải là sự chấp nhận xuông của lý trí đối với một số tín điều nào đó, mà là một kinh nghiệm sống, hay nói đúng hơn là một sự dấn thân dựa trên kinh nghiệm thật sự về Thiên Chúa. Nếu không có kinh nghiệm về Thiên Chúa, khó có thể có được một đức tin đích thực và mạnh mẽ.

Tại sao các tông đồ lại có một đức tin mạnh mẽ đến nỗi có thể sống chết cho việc rao giảng Tin Mừng? Chính vì các ông có kinh nghiệm đích thực về Thiên Chúa, về Đức Giêsu, về sự phục sinh của Ngài. Nếu các ông không hề gặp Đức Giêsu sau khi Ngài sống lại mà chỉ nghe người khác tường thuật lại, thì chắc hẳn các vị sẽ không dám sống chết với lời rao giảng của mình. 

Đòi hỏi của Tôma «Nếu tôi không thấy dấu đinh…, nếu tôi không xỏ ngón tay…, tôi chẳng tin» (Ga 20,25) là một đòi hỏi chính đáng. Đức tin chỉ có thể mạnh mẽ khi nó dựa trên những kinh nghiệm đích thực về Thiên Chúa. Vì thế, để có một đức tin mạnh mẽ, chúng ta cần có kinh nghiệm đích thực về Thiên Chúa và sau đó cũng cần đến những thử thách của Thiên Chúa để củng cố niềm tin, làm đức tin ngày càng vững mạnh hơn.



4.  Quá trình hình thành một đức tin mạnh mẽ

Để dễ hiểu, chúng ta hãy dựa vào quá trình hình thành đức tin của dân Do Thái:

Kinh nghiệm đức tin ban đầu: Thiên Chúa muốn dân Do Thái tin Ngài là Thiên Chúa của họ, Ngài không chỉ nói với họ hay thuyết phục họ để họ tin Ngài, mà nhiều lần Ngài biểu dương quyền năng của Ngài cho họ. Biểu dương cụ thể nhất, rõ ràng nhất, được mọi người Do Thái thời đó chứng kiến tận mắt là Thiên Chúa cho dân Ngài vượt qua Biển Đỏ một cách lạ lùng. Khi thực hiện phép lạ này, Thiên Chúa làm cho nước biển rẽ ra trước, rồi mới bảo dân chúng bước xuống biển, để cuối cùng họ vượt qua Biển Đỏ an toàn (x. Xh 14,21-22).

Nhờ đó, toàn dân đều có kinh nghiệm rõ rệt về quyền năng của Thiên Chúa. Họ bắt đầu đặt niềm tin nơi Ngài dựa trên kinh nghiệm nền tảng ấy. Đức tin ban đầu của họ còn non yếu, cần phải được nâng đỡ bằng những kinh nghiệm tỏ tường. Thiên Chúa không đòi hỏi họ «liều» trong giai đoạn này. Nhưng khi đức tin trưởng thành, đức tin ấy phải dựa trên kinh nghiệm về Thiên Chúa trong quá khứ để tự xác quyết về quyền năng của Ngài sẽ được thể hiện thế nào trong hiện tại hoặc tương lai. Khi con người đã có kinh nghiệm ban đầu về quyền năng của Thiên Chúa và đặt niềm tin vào Ngài rồi, thì Thiên Chúa bắt đầu thử thách niềm tin ấy để niềm tin ấy trưởng thành và vững mạnh hơn.

Thử thách đức tin: Thời Giosuê làm thủ lãnh dân Do Thái, Thiên Chúa cũng cho xảy ra một trường hợp tương tự như lần dân Chúa vượt qua Biển Đỏ. Thời ấy, Giosuê đưa toàn dân cùng với Hòm Bia Giao Ước đi qua sông Giođan. Thiên Chúa ra lệnh cho dân bước xuống dòng sông. Nhưng lần này, Ngài không cho nước rẽ ra trước, mà bảo họ bước xuống trước. Sự việc xảy ra là «khi chân các tư tế khiêng Hòm Bia vừa đụng xuống nước ở ven bờ, thì nước mạn ngược chảy xuống dừng lại, dựng đứng thành một khối duy nhất trong một khoảng rất dài» (Gs 3,15-16), và toàn dân đã qua được sông Giođan. Như vậy, lần này, Thiên Chúa đòi hỏi dân phải «liều» hơn lần trước một chút. Nhờ liều như thế mà họ lại kinh nghiệm thêm một lần nữa về quyền năng của Thiên Chúa.

Thiên Chúa đào tạo và giáo dục đức tin của ta theo cách ấy, nghĩa là một cách tiệm tiến và có phương pháp. Đức tin ta càng trưởng thành, thì Thiên Chúa càng đòi hỏi ta phải liều lĩnh nhiều hơn. Nếu ta dám tin mạnh hơn, dám chứng tỏ đức tin ấy bằng hành động là dám liều nhiều hơn, thì ta càng có nhiều kinh nghiệm về Thiên Chúa hơn, và đức tin của ta ngày càng trưởng thành hay vững chắc hơn. 

Một khi đã có kinh nghiệm về Thiên Chúa, về quyền năng của Ngài, mà ta lại không dám chứng tỏ đức tin bằng hành động thật sự khi được Ngài thử thách, thì đức tin của ta sẽ dậm chân tại chỗ, không phát triển, và mãi mãi sẽ là một đức tin non yếu.

Đức tin trưởng thành: Đức tin thật sự đạt đến mức trưởng thành phải tương tự như đức tin của Phêrô khi ông dám liều bước chân xuống biển để đi trên nước đến với Đức Giêsu (x. Mt 14,22-33). Tuy nhiên, đức tin của ông chưa đạt đến mức hoàn hảo, vì «khi thấy gió thổi thì ông đâm sợ và bắt đầu chìm xuống biển» (14,30). Ông vẫn còn nghi nan. Chính sự nghi nan này làm ông chìm. Nếu ông hoàn toàn vững tin, ông sẽ đi trên mặt biển không khác gì trên đất liền.

Hiểu được quá trình hình thành một đức tin vững mạnh, ta sẽ hiểu được cách để phát triển đức tin của ta hầu trở thành «con người mới».




CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, trong cuộc đời Kitô hữu của con, nhiều lần Cha đã tỏ quyền năng của Cha cho con một cách rất lạ lùng, để con có được những kinh nghiệm nền tảng về quyền năng hay tình thương quan phòng của Cha. Nhờ đó con tin vào Cha. Nhưng khi Cha thử thách niềm tin của con để đức tin của con trưởng thành hơn, thì con lại lùi bước. Con đòi hỏi phải thật bảo đảm mới dám dấn thân hành động theo ý Cha. Con không dám liều một chút vì Cha. Vì thế, đến bây giờ đức tin của con vẫn còn yếu kém. Và con vẫn mãi mãi là một con người yếu đuối. Xin Cha giúp con biết liều hơn một chút, để quyền năng của Cha được biểu lộ ra cho con, hầu đức tin của con vững mạnh hơn. Nhờ đó con tiến triển hơn trong đời sống đức tin để trở thành «con người mới».


Nguyễn Chính Kết


Share:

Thứ Năm, 25 tháng 4, 2019

Việt Nam hóa chiến tranh và bài học chơi với người Mỹ



Việt Nam hóa chiến tranh và bài học chơi với người Mỹ
Nguyễn Tiến Hưng








Một trong những cuộc họp Mỹ - Việt cuối cùng trong Dinh Độc Lập. 
Tác giả Nguyễn Tiến Hưng (bìa phải), ngồi cạnh Đại tướng Cao Văn Viên
Trời đã về khuya, tôi nóng lòng ngồi chờ Eric von Marbod, Đệ nhất Phó Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, thành viên của phái đoàn Tướng Fred Weyand do Tổng thống Gerald Ford gửi sang Sàigòn để thẩm định tình hình.

Hôm ấy là ngày 28 tháng 3/1975.


Sang ngày 31/3/1975 một buổi họp với phái đoàn Weyand dưới sự chủ tọa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tại Phòng Tình hình Dinh Độc Lập vào lúc 5 giờ chiều. Ngoại trưởng Vương Văn Bắc và chúng tôi cùng tham dự. Đây là buổi họp Việt - Mỹ cuối cùng sau 25 năm người Mỹ dính líu vào Việt Nam.
 Mọi người cố tỏ ra bình tĩnh để cho đài truyền hình quay phim. Tôi ngồi cạnh Đại tướng Cao Văn Viên cũng cố gắng có một nụ cười.
 Nhưng khi truyền thông vừa ra khỏi thì bầu không khí nặng nề đã bao trùm căn phòng: Đà Nẵng vừa bị bỏ ngỏ ngày hôm trước.


Nhiều vấn đề được đề cập nhưng quan trọng nhất là làm sao có được tiếp liệu cho lực lượng quân đội còn lại.
 Tướng Weyand kết luận:
«Chúng tôi sẽ viện trợ theo nhu cầu của VNCH và sẽ trình bày những nhu cầu này trước Quốc Hội.»
 Ông Marbod thêm:
«Nếu có lệnh thì việc tiếp liệu sẽ khởi sự ngay vì đã có sẵn ở Okinawa và Đại Hàn.»
Ngày hôm sau, 1/4/1975 Tổng thống Thiệu chủ tọa một cuộc họp nữa để bàn việc tái tổ chức một số đơn vị quân đội bị tan rã nếu có được tiếp liệu như Tướng Weyand hứa. Về phía dân sự, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc và chúng tôi cùng tham dự.
Qua hai cuộc họp này và sau những diễn biến và những buổi họp tại Dinh Độc Lập trong ba tháng đầu 1975, chúng tôi thấy những khó khăn về vật chất cũng như tinh thần không thể vượt qua được của Miền Nam đã bộc lộ ra thật rõ ràng.
Hầu hết nó phản ảnh những khuyết điểm của chiến lược «Việt Nam Hóa» và việc Quốc Hội Mỹ cắt quân viện.

Mỹ hóa chiến tranh


Trước hết, tại sao phải Việt Namhóa? Vì trước đó cuộc chiến đã bị Mỹ hóa.
Trong cuốn 'Việt Nam1945-1995' (trang 329) GS Lê Xuân Khoa trích dẫn một bài phỏng vấn của TT Thiệu với tạp chí The New Republic như sau:
«Lý do chính mà Việt Cộng cố thủ mạnh mẽ được như vậy là vì dân chúng vẫn tin rằng chẳng có gì khác giữa người Pháp mà họ gọi là thực dân và người Mỹ mà họ gọi là đế quốc.» Ngoài ra.
Chương trình «Mỹ hóa» chiến tranh còn phạm phải ít nhất hai sai lầm quan trọng khác:

Hoa Kỳ rút quân khỏi Nam Việt Nam năm 1975

«Vì quá tin tưởng ở sức mạnh của mình và coi thường khả năng của quân lực VNCH, Hoa Kỳ không trang bị cho họ vũ khí hiện đại. Quân Mỹ vào Nam Việt Nam từ tháng 3/1965 nhưng VNCH chỉ có súng Garrands từ Thế Chiến II. Mãi tới tháng 6/1968 sau Tết Mậu Thân, Hoa Kỳ mới cung cấp súng M-16 cho binh sĩ VNCH trong khi bộ đội cộng sản miền Bắc đã sử dụng AK-47 từ mấy năm trước. Hầu hết máy bay trực thăng rất cần thiết trong các cuộc hành quân đều do phi công Hoa Kỳ lái và chỉ chịu mệnh lệnh của cấp chỉ huy người Mỹ.»


 Quân đội Hoa Kỳ chỉ quen với chiến tranh qui ước không thích hợp với những điều kiện chiến đấu chống du kích trong núi rừng nhiệt đới. Nhưng Hoa Kỳ vẫn tin rằng sẽ thắng bất cứ loại chiến tranh nào bằng cách sử dụng hỏa lực thật mạnh và thật nhiều.
Lối đánh trận kiểu nhà giàu này quá phí phạm, coi thường sinh mạng của dân chúng mà thường không đem lại kết quả mong đợi. Trái với mục tiêu 'tranh thủ nhân tâm,' lối đánh trận này chỉ làm cho dân chúng có cảm tình với chủ trương «chống Mỹ cứu nước» của Cộng sản. Đó cũng là nguyên nhân của nhiều trường hợp bất đồng ý kiến giữa các cố vấn Mỹ và các cấp chỉ huy người Việt.”
Theo nhận xét của một vài tướng lãnh, nó lại còn gây nên một tình trạng tâm lý bất lợi: đó là làm cho quân đội VNCH quen với cung cách chiến đấu kiểu nhà giàu.

Việt Nam hóa thực chất là gì?



Tổng thống Richard Nixon muốn «giải kết vai trò của Mỹ» ở Việt Nam(De-americanization of the Vietnam War). Bộ trưởng Quốc Phòng Melvin Laird thuyết minh nên dùng từ «Việt Nam hóa» (Vietnamization).
Chương trình này đã giúp quân đội VNCH trở thành hùng mạnh nhất tại Đông Nam Á. Về mặt kinh tế nó cũng giúp Miền Nam có được những bước tiến vượt kỳ vọng, mặc dù chịu sức ép lớn lao của lạm phát siêu mã.
Tuy nhiên, về mặt quân sự thì nó có nhiều khuyết điểm:



Quân đội hùng mạnh nhưng thiếu bền vững (sustainability) và chỉ mạnh nếu có được hỏa lực và tính cơ động cao (fire power and mobility).
Cả hai yếu tố hỏa lực và di động đều đòi hỏi phải có sẵn đồ phụ tùng để bảo trì và sửa chữa. Nguyên 1,429 tàu chiến của Hải quân VNCH đã cần tới 64,240 phụ tùng và dụng cụ sửa chữa, Không quân: 192,000, Lục quân: 127,000 phụ tùng.


Năm 1974 khi Quốc Hội Mỹ cắt quân viện, Đại tướng Cao Văn Viên phải hạn chế tối đa đạn dược, xăng nhớt.
 Có lần chúng tôi đi thăm Sư đoàn 1 đóng ở Huế, Tướng Nguyễn Văn Điềm chỉ lên phía đồi núi và nói:
 «Chúng tôi luôn bị pháo của quân đội Bắc Việt từ trên đó mà không có khả năng đáp trả.»

Tinh thần suy sụp

Tình trạng này ép mạnh vào tinh thần Miền Namnhư Đại tướng Viên báo cáo:

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và phu nhân

«Đạn tồn kho sẽ hết vào tháng 6, 1975.»
Cá nhân chúng tôi đã từng chứng kiến sự khắc khoải của TT Thiệu, nhất là khi ông ra lệnh dốc hết dự trữ của Ngân hàng Quốc gia để mua tiếp liệu: dầu lửa thì đã tìm thấy ngoài khơi nhưng chưa khai thác kịp.
Nói về hỏa lực, phải kể tới số quân cụ được chuyển giao trong chương trình Enhance và Enhance Plus (1972). Truyền thông Mỹ hay nói tới việc đã chuyển cho Miền Nam hàng tỷ đôla khí giới mà sao vẫn bại trận. Ta hãy nghe Tướng John Murray, tùy viên quốc phòng ở Sàigòn bình luận:


«Ai cũng tưởng lầm về vụ chuyển giao quân cụ cho VNCH. Thật ra đó chỉ là những quân cụ hư hỏng hoặc cũ kỹ, lỗi thời. Phần lớn là đồ thặng dư, đòi hỏi phải bảo trì quá nhiều.»
Mỗi khi ông Murray yêu cầu Bộ Quốc phòng gửi phụ tùng để bảo trì thì đều bị từ chối: «Miền Nam phải ôm lấy những thứ này như của nợ.»

Không chuyển giao hệ thống tham mưu


Chương trình Việt Namhóa chỉ tập trung chủ yếu vào việc chuyển giao quân cụ, tiếp liệu (như kho Long Bình), không đặt nặng vấn đề tham mưu và điều hợp chiến trường. Như vậy, khả năng tham mưu của Bộ Tổng Tham Mưu và tư lệnh chiến trường là giới hạn.
Đây có thể cũng là một lý do mà nhiều khi Tổng thống Thiệu chỉ huy trực tiếp từ Dinh Độc Lập (như chúng tôi chứng kiến trong buổi họp ngày 25/3/1975 về lệnh bỏ Huế). Ngay từ thời còn là một sĩ quan, khả năng tham mưu của ông đã được đồng liêu và tướng lãnh Mỹ khen ngợi. Nhưng ông bị chỉ trích là tập trung quyền hành.

Không giúp VNCH có thêm lực lượng trừ bị



Vấn đề này thì chúng tôi nắm rất vững vì đã từng nhận chỉ thị cùa Tổng thống Thiệu để giúp Đại tướng Viên và Trung tướng Đồng Văn Khuyên, đặc trách tiếp vận, đi «lobby» phía Mỹ giúp trang bị thêm hai sư đoàn để làm lực lượng trừ bị.
VNCH có trên một triệu quân nhưng chỉ có 13 sư đoàn (200,000) là quân chính quy, phần còn lại là địa phương quân, dân quân...giữ an ninh địa phương.
TT Thiệu thường hay phàn với chúng tôi, «Mình chỉ có hai sư đoàn Dù và Thủy quân Lục chiến phải dùng trực thăng bốc đi hết trận này tới trận khác.»

Việt Nam Hóa quá ngắn về thời gian

Chương trình bắt đầu từ Hè 1969 và chấm dứt cuối 1972: như vậy là chỉ có ba năm rưỡi. Ông Von Marbod ví vấn đề thời gian vắn vỏi như «muốn cho chín người đàn bà đẻ một đứa con trong một tháng.»

BM
Các nữ quân nhân VNCH họp kỹ thuật vô tuyến ở trường gần Vũng Tàu

Nó lại bị gián đoạn bởi hai trận chiến: «Lam Sơn 719» đánh sang Lào (Xuân 1971) và «Mùa hè đỏ lửa» (Xuân - Thu 1972).

Sau hai trận này sức mạnh của quân đội bị tiêu hao. Cấp lãnh đạo quân sự mất đi gần 20% của thời gian Việt Namhóa có thể dùng để tổ chức nhiều khóa hội thảo về tham mưu.

Việt Nam hóa trong bối cảnh đàm phán

BM
 
Chiến lược giải kết khỏi Việt Namdựa vào hai cấu phần: Việt Nam Hóa và đàm phán với Bắc Việt. Tổng thống Nixon cho rằng cả hai sẽ đi song hành và hỗ trợ nhau. Nhưng trong thực tế nó đã đi ngược với nhau: Nixon tin vào Việt Nam Hóa, Kissinger không tin - lại còn thuyết phục Nixon tại sao ông không tin. Kissinger chỉ tập trung vào mật đàm.

Nơi đây chúng tôi chỉ nhắc lại một thí dụ về sự đối chọi này: ngày 17/09/1972 quân đội VNCH lấy lại được Quảng Trị, tinh thần lãnh đạo Miền Namlên cao - đó là thành công của Việt Nam hóa.

Nhưng chỉ ba tuần sau, tinh thần lại bị rúng động thật mạnh - vì thất bại của hòa đàm.

Tại sao thất bại? Vì trong buổi họp với ông Lê Đức Thọ (8/10/1972) ông Kissinger đã nhượng bộ điểm chính yếu của bốn năm mật đàm: Mỹ đơn phương rút quân nội trong hai tháng, quân đội Bắc Việt được đóng lại Miền Nam - và đóng theo cách đốm da beo.

Những ngày cuối cùng

Trước bối cảnh bị cúp viện trợ, năm khuyết điểm trên đã cùng một lúc tác động vào Miền Nam trong những ngày tháng cuối cùng. Bắt đầu từ trận Phước Long.

Trận Phước Long

BM
 
Đêm ngày 13/12/1974, quân Bắc Việt nổ súng tại Phước Long. Lực lượng của VNCH chỉ gồm Địa phương quân, Nghĩa quân, và 4 trung đội Pháo binh, tổng cộng khoảng 4,000 người. Dù phải đối đầu với lực lượng áp đảo của Bắc Việt gồm 2 sư đoàn (Sư đoàn 7 và 3 Bộ binh) cùng với các đơn vị pháo, xe tăng, đặc công, và phòng không gộp lại là đông hơn lực lượng Miền Nam gấp sáu lần, lực lượng trú phòng vẫn chống cự và kéo dài được trên ba tuần, tới 6/1/1975.

Giải pháp 'da beo' đã giúp quân đội Miền Bắc có một lợi điểm chiến thuật thật lớn: đó là có thể chọn nơi, chọn ngày và chọn giờ để tấn công. Khi tấn công thì có thể tập trung quân để ở thế thượng phong.

BM
Y tá Mỹ chăm sóc thương binh trước khi phi cơ rời Tân Sơn Nhất

Đang khi đó, quân đội Miền Namphải trải ra thật mỏng trên toàn lãnh thổ và một biên giới gần 700 dặm.

Sao không tái chiếm Phước Long?

BM
 
Hội đồng An ninh Quốc gia họp với Tướng Dư Quốc Đống, Tư lệnh Quân đoàn III để thẩm định việc tái chiếm Phước Long. Cuộc họp đi tới kết luận là không khả thi vì (1) không còn lực lượng trừ bị nào, không thể rút đơn vị nào từ vị trí khác; (2) thiếu phương tiện chuyển quân và chuyển đại pháo.

BM
 
Chưa bao giờ Miền Namlại cảm thấy bất lực như lúc này: không có quân trừ bị để tăng viện mà nếu rút đơn vị này nọ để tăng viện thì cũng hết phương tiện để chuyển quân và chở đến cho kịp thời.

Về thời gian cần thiết để chuyển quân: muốn đưa Sư đoàn Dù từ miền Trung tới thì cần một tuần, và muốn đưa một sư đoàn của Quân khu IV tới cũng mất ba ngày, mà Phước Long cần ngay. Đúng như Đại tướng Viên đã trình Tổng thống Thiệu hồi Hè 1974:

«Trước đây , trong cuộc tấn công 1972, Sư đoàn Dù có thể di chuyển từ Sài Gòn tới các mặt trận ở Pleiku và Vùng I chỉ trong 48 tiếng bằng không vận mà không gây trở ngại gì. Nhưng bây giờ, cùng một cuộc không vận tương tự , không quân cần đến 7 ngày và phải trưng dụng tất cả các phương tiện không vận khác.»

Thời khắc sụp đổ

BM
 
Ngày 6/01, Phước Long thất thủ. Trong cuộc chiến kéo dài 20 năm, Phước Long là tỉnh đầu tiên bị mất. Phước Long mở đầu cho cuộc tổng tấn công Mùa Xuân 1975 của quân đội Bắc Việt. Có nhiều yếu tố đưa tới sụp đổ, nhưng trong tất cả những biến cố theo sau Phước Long - Ban Mê Thuột, Pleiku, Huế, Đà Nẵng - đều có nguồn gốc từ hai yếu tố chính: khuyết điểm của Việt Namhóa và Quốc hội Mỹ cắt viện trợ.

Sụp đổ quá nhanh vì tinh thần đã bắt đầu suy sụp từ tháng 8 năm 1974 khi tác giả của Việt Nam hóa, TT Richard Nixon sụp đổ (8/8/1974) và chỉ ba ngày sau (11/8/1974) Quốc hội Hoa Kỳ cắt quân viện cho VNCH: từ 2.1 tỷ (1972/1973) xuống 700 triệu USD, mà trên thực tế chỉ còn khoảng 500 triệu. Điều chỉnh theo lạm phát phi mã thì con số này thành ra vô nghĩa.

Bài học nào từ Việt Namhóa cho ngày nay?

BM
 
Ngày nay nhìn lại, trong bối cảnh địa chính trị mới ở Đông Nam Á, trong giới hạn của bài này, chúng tôi chỉ đề cập tới một bài học thực tế nhất cho bất cứ nước nào muốn chơi với Mỹ: đó là «tính cách bền vững» trong sự hỗ trợ từ Washington.

Đó là, từ các khí cụ, khí tài và quân trang quân dụng khi được Mỹ chuyển giao (tặng hoặc bán) cho tới tàu tuần dương, chiến hạm, máy bay vận tải, khu trục, tên lửa, radar tối tân, bên nhận cần có tầm nhìn xa về vấn đề phụ tùng và bảo trì.

Nhắc lại giai đoạn VNCH trên đà tan rã, chỉ riêng về phụ tùng, TT Thiệu đã ví von: «Tặng tôi một cái xe Cadillac mà khi cần lại không có được một cái 'bougie' để thay thế thì chiếc Cadillac chỉ là một đống sắt, lại còn phải canh giữ cho khỏi bị mất trộm.»
BM
Vì hư hỏng và thiếu phụ tùng, Không quân VNCH chỉ có thể sử dụng được từ 4 tới 8 chiếc trong tổng số 32 phi cơ C-130 có sẵn. Hải quân thì phải giải tán 600 tàu tuần giang.

Bên cạnh đó, dựa vào Hoa Kỳ về vũ khí, phụ tùng quân sự cần tính là làm sao phải có sẵn khi cần: thời gian của thủ tục đặt hàng từ Mỹ và chuyên chở tới Việt Nam là 45 ngày: quá lâu khi khẩn cấp.

Còn về bảo trì, thứ nhất, nếu quân cụ, quân trang là cũ thì vấn đề sửa chữa, bảo trì luôn đặt ra, như trong chương trình Enhance Plus với VNCH; thứ hai, khí giới càng tối tân thì càng phức tạp: cần đào tạo lâu để sử dụng và khung thời gian bảo trì lại càng lâu.

Đây là những vấn đề mà nước đồng minh hay đối tác với Hoa Kỳ cần quan tâm và trao đổi với chính giới Mỹ ngay từ đầu.

BM
 
Nếu chờ đến khi lâm trận mới gọi Mỹ thì quá muộn.



TS Nguyễn Tiến Hưng

Share: