Thứ Năm, 31 tháng 8, 2017

TN22b - Chấp nhận đau khổ để được hạnh phúc



CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 22 Phục Sinh 

(3-9-2017)

Bài đào sâu

Chấp nhận đau khổ để được hạnh phúc;
chấp nhận chết để được sống



  TIN MỪNG: Mt 16, 21-27

Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất

Điều kiện phải có để theo Đức Giêsu



CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn quan niệm về đau khổ và chết chóc như thế nào? Đó có phải là những thực tại xấu ác cần xa tránh? Bạn có quan niệm nào khác cao hơn không?
2. Có ai đã chết để bạn được sống, hay đã đau khổ để bạn được hạnh phúc bao giờ chưa? Bạn có sẵn sàng đau khổ để những người thân yêu mình được hạnh phúc không? hay có sẵn sàng chết để họ được sống bao giờ chưa? Hy sinh như thế có ích lợi gì không?
3. Tại sao Chúa lại đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải chấp nhận hy sinh và đau khổ? Nếu đó không phải là điều cần thiết thì Ngài có đòi hỏi như thế không?


Suy tư gợi ý:

1. Ai cũng sợ đau khổ, nhưng đau khổ rất ích lợi và cần thiết 

Đau khổ và chết thường được coi là những gì xấu ác, cần phải xa tránh cho chính mình và người khác. Đó là một suy nghĩ rất phổ thông và thường được coi là khôn ngoan. Nhưng có những người suy nghĩ cao hơn, họ thấy được giá trị, lợi ích, thậm chí sự cần thiết của đau khổ và sự chết. Vì thế, đối với họ, đau khổ và sự chết không phải là kẻ thù, là một cái gì đáng sợ, mà là bạn, là một cái gì thân thiết mà họ sẵn sàng vui vẻ đón nhận. 

Thật vậy, đau khổ và sự chết cần thiết cho sự sống và hạnh phúc. Muốn hạnh phúc thì nhiều khi phải chấp nhận đau khổ. Muốn cứu mình hay người khác, nhiều khi phải sẵn sàng chấp nhận đau khổ, thậm chí cái chết. Nói khác đi, sự sống nhiều khi phải mua bằng cái chết, và hạnh phúc phải mua bằng đau khổ. Và sự sống hay đau khổ phải trả giá ấy sẽ biến thành sự sống hay hạnh phúc, cho mình hoặc cho người khác.

Suy nghĩ như thế thường bị coi là bất bình thường, là điên rồ, nhưng thực ra đó là một suy nghĩ rất minh triết, rất khôn ngoan, phù hợp với qui luật tất yếu của vũ trụ. Thiết tưởng người Kitô hữu cần nắm vững cách suy nghĩ này. Chính Thiên Chúa đã suy nghĩ theo cách này, và Ngài đã dùng đau khổ không chỉ để cứu chuộc nhân loại, mà còn để huấn luyện và thánh hóa con người. Những con người bản lãnh đều là những con người được trui rèn trong đau khổ: «Đức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn» (Dt 2,10).

Khi nghe Đức Giêsu loan báo về đau khổ và cái chết của Ngài, phản ứng của Phêrô là ngăn cản Ngài như ngăn cản khỏi một tai họa, một sự dữ, một điều xấu xa. Phêrô đã suy nghĩ theo cách thường tình của mọi người. Còn Đức Giêsu, Ngài trách ông hơi nặng lời, gọi ông là Xatan, vì Ngài không ngờ ông theo Ngài đã lâu mà vẫn không suy nghĩ cao hơn người thường được: «Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người» (Mt 16,23).



2. Đau khổ phát sinh hạnh phúc 

Sống trên đời, ai cũng đều có kinh nghiệm rằng đau khổ tự nguyện có thể biến thành hạnh phúc. Một người cha làm việc vất vả và cực khổ ở xưởng thợ là để đem lại cơm no áo ấm cho đàn con. Đau khổ tự nguyện của ông biến thành hạnh phúc của con cái. Một học sinh chịu khó học hành vất vả trong hiện tại để đổi thành vinh quang và thăng tiến trong tương lai.

Ngược lại hạnh phúc lại có thể biến thành đau khổ. Những người cha tìm hạnh phúc cho riêng mình trong những quán rượu thì rồi sẽ chuốc lấy đau khổ và nhục nhã cho vợ con. Một học sinh ham chơi, ham coi phim để vui hưởng nhàn nhã trong hiện tại, cuối cùng sẽ phải chấp nhận thất bại ê chề trong tương lai.

Cái chết tự nguyện có thể biến thành sự sống: biết bao chiến sĩ ngã gục và chết thê thảm ở chiến trường để người khác ở hậu phương được sống yên ổn. Và cái sống có thể biến thành cái chết: sự hèn nhát và đi tìm cái sống cho bản thân của những người lãnh đạo xã hội hay Giáo Hội có thể biến thành cái chết và đau khổ cho biết bao người dân vô tội.

Đức Giêsu ý thức quy luật này hơn ai hết, và Ngài đã chấp nhận chết để nhân loại được sống, chấp nhận đau khổ để con người được hạnh phúc: «Người đã mang tội lỗi chúng ta vào thân thể mà đưa lên thập giá để chúng ta được sống đời công chính. Người đã mang lấy vết thương của chúng ta để chúng ta được chữa lành» (Pr 2,24). Chấp nhận chết để người khác được sống, chấp nhận đau khổ để người mình yêu được hạnh phúc, đó là hành động của những người thật sự yêu thương. Vì thế, cái chết và đau khổ trở thành phương cách để biểu lộ tình yêu: «Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình» (Ga 15,13).



3. Những người theo Chúa cần biết chấp nhận đau khổ 

Đức Giêsu là Thầy và là gương mẫu của chúng ta, nếu Ngài đã quan niệm như thế, đã sống và hành động như thế, chẳng lẽ chúng ta, những người theo Ngài, lại không muốn quan niệm và hành động như Ngài sao? Đó chính là lý do khiến Ngài đòi hỏi những người theo Ngài «phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo» (Mt 16,24). Nghĩa là Ngài đòi hỏi chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận đau khổ, thậm chí cả cái chết.

Là những người theo Chúa, chúng ta không nên quá sợ hãi đau khổ và sự chết. Trái lại, hãy chấp nhận đau khổ và sự chết một cách bình thản. Đức tin thật sự giúp chúng ta làm được điều ấy! «Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta» (Rm 8,18). Chúng ta vẫn hát vào dịp lễ Phục sinh: «Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài. Nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài» (Rm 6,8). Chúng ta tuyên xưng mạnh mẽ như vậy, nhưng chúng ta có tin thật như vậy không? Hay chúng ta tuyên xưng như vậy một cách giả dối? Vì nếu thật sự tin, tại sao chúng ta lại quá sợ đau khổ và cái chết, nhất là không thể chấp nhận đau khổ và chết vì Ngài và cho Ngài?

Biết bao tội lỗi, xấu xa, bỉ ổi, hèn nhát… đã xảy ra chỉ vì người ta ham sống sợ chết, ham sướng sợ khổ. Ngày xưa, những người quân tử Trung Hoa, tức những người theo đạo của Khổng Phu Tử, đã từng chủ trương «coi cái chết nhẹ tựa lông hồng». Biết bao người đã chấp nhận đau khổ tận cùng để tận trung với vua với nước, để trọn tình trọn nghĩa với cha mẹ, với vợ/chồng, với bạn bè… Lẽ nào chúng ta, những người theo Đức Giêsu, tức theo tôn giáo mà chúng ta luôn tuyên xưng là tốt nhất thế giới, lại chịu thua những người quân tử đạo Khổng kia? Nếu chấp nhận thua thì chúng ta hãy khoan tự hào rằng tôn giáo mình là cao hơn, tốt hơn tôn giáo của họ! 

Liệu tôn giáo của chúng ta, với những phương tiện hữu hiệu là các bí tích, có ban cho chúng ta – nhất là những người cử hành hoặc lãnh nhận bí tích hằng ngày – đủ sức mạnh và lòng can đảm hơn những tín đồ tôn giáo khác không? Chúng ta cần nghiêm chỉnh đặt lại vấn đề và tìm hiểu.

Biết bao Kitô hữu đã chấp nhận im tiếng trước bất công, chấp nhận đồng lõa với điều ác, sẵn sàng để mặc kẻ ác tự do hành động, cho dù mình có khả năng can thiệp. Tại sao? Có phải vì mình muốn được an toàn cho bản thân, giữ được tình trạng an nhàn, sung sướng mình đang có? Làm như thế quả là khôn ngoan đấy, nhưng đó là khôn ngoan kiểu thế gian, của những người ích kỷ, không phải là khôn ngoan của kẻ có tình yêu đích thực. Và đó không phải là thứ khôn ngoan của những người theo Đức Giêsu. Những người ấy, nếu có mang danh theo Ngài thì cũng chỉ là theo một cách «hữu danh vô thực» mà thôi! 

Một người mẹ làm sao có thể ngồi im khi con cái mình bị bách hại, bị đàn áp bất công? Bà sẽ gào thét, sẽ xông tới cứu con mình, bất chấp nguy hiểm, đau khổ hay cái chết. Nếu không hành động như thế, bà có dám tự hào là bà yêu thương con mình thật sự không?



4. Kết quả cuối cùng: «Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất» 

Điều khiến cho sự khôn ngoan thế gian – hay thứ khôn ngoan của những người ích kỷ, chỉ biết sống vì mình, cho mình – cuối cùng trở thành điên dại (x. 1Cr 1,20), chính vì mọi sự đều có một kết quả chung cuộc. Chính vì có một kết quả chung cuộc vĩnh cửu mà những kẻ khôn ngoan kiểu thế gian muốn tìm hạnh phúc cho mình lại không tìm được, muốn tránh đau khổ cho mình lại không tránh được. Còn những kẻ mà thế gian cho là ngu dại – sẵn sàng chấp nhận đau khổ để người khác hạnh phúc, chấp nhận cái chết để người khác được sống – thì lại được sống vĩnh cửu trong hạnh phúc vô biên. 

Khi đối diện với kết quả chung cuộc ấy, người ta mới thấy câu của Đức Giêsu trở thành hiện thực: «Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy» (Mt 16,25). Lúc ấy những người khôn ngoan kiểu thế gian mới nhận ra rằng: «Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?» (Mt 16,26).



CẦU NGUYỆN

Tôi nghe Thiên Chúa nói với tôi: «Biết bao người chấp nhận cực nhọc, hy sinh, đau khổ để đạt được một cái mề đay, một thứ vinh quang hão huyền chóng qua. Biết bao người sẵn sàng chết cho một hôn quân bạo Chúa. Tại sao con lại không dám hy sinh, chấp nhận đau khổ vì Cha, vì tha nhân, mặc dù điều đó làm cho con được hạnh phúc đời đời? Con không có đức tin sao?»  

Share:

Thứ Tư, 30 tháng 8, 2017

TN22a - Điều kiện cốt yếu nhất để theo Chúa là "từ bỏ mình và vác thập giá"




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 22 Phục Sinh 

(3-9-2017)

Từ bỏ mình và chấp nhận đau khổ,
là điều kiện cốt yếu nhất để theo Chúa



ĐỌC LỜI CHÚA

  Gr 20, 7-9: (9) Lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt.

  Rm 12, 1-2: (2) Hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.

  TIN MỪNG: Mt 16, 21-27

Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất


(21)  Khi ấy, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.   (22) Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: «Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!»  (23) Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: «Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người».

Điều kiện phải có để theo Đức Giêsu

(24) Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: «Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.   (25) Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy.   (26) Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?  (27) «Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.


CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1.   Tại sao Đức Giêsu lại chấp nhận chịu đau khổ và chết? Ngài có thể chọn cách nào khác khôn ngoan hơn, nghĩa là khỏi phải đau khổ và chết không? Phải chăng cách Ngài chọn là cách khôn ngoan nhất? Nếu đó là cách khôn ngoan nhất, thì ta có thể rút ra bài học gì?
2.   Khi người thân của ta chỉ vì thương ta mà cản trở ta làm điều tốt hoặc đề nghị ta làm điều xấu, thì ta nên phản ứng thế nào? Trong trường hợp này, Đức Giêsu đã phản ứng thế nào? Tại sao?
3.   Điều kiện để theo Đức Giêsu là gì? Không thực hiện những điều kiện ấy thì có thể theo Ngài không? Những người theo Ngài nhưng không hề thực hiện những điều kiện ấy thì sao? Có những hạng người như thế không?

Suy tư gợi ý:

1.   Những nghịch lý trong cuộc đời trần gian

Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy ẩn hiện những cặp thực tại đối nghịch nhau:

– «chịu nhiều đau khổ… rồi bị giết chết» nhưng «ngày thứ ba sẽ sống lại» (Mt 16,21);

– «muốn cứu mạng sống mình» thì kết quả là «sẽ mất» (Mt 16,25a);

– «liều mất mạng sống» thì lại «tìm được mạng sống» (Mt 16,25b).

Tóm lại, những thực tại đối nghịch ấy luôn đi đôi với nhau, hỗ tương và hoán chuyển lẫn nhau, cái này dẫn đến cái kia, cái này là kết quả của cái kia, thực hiện cái này thì cái kia sẽ xảy ra, và ngược lại. Đau khổ do tự nguyện chấp nhận thì thường dẫn đến hạnh phúc; còn hạnh phúc mà lại muốn hưởng trước thì thường dẫn đến đau khổ; nhiều trường hợp, sẵn sàng chấp nhận chết thì lại được sống, còn tìm cách để được sống thì lại phải chết…

Cuộc đời này gồm nhiều nghịch lý như thế, khiến cho những kẻ ích kỷ cuối cùng chỉ gặp toàn thảm bại. Kẻ ích kỷ chỉ lo cho mạng sống mình, cho hạnh phúc của mình, lo tránh đau khổ cho một mình mình, thì tuy trước mắt là lợi được điều này điều kia, nhưng lại mất những thứ cốt yếu nhất, quan trọng nhất trên đời, vì thế cuộc đời họ gặp rất nhiều khổ đau. Còn người sống vị tha, quên mình, yêu thương, sẵn sàng chấp nhận đau khổ vì tha nhân thì tuy trước mắt là mất thứ này thứ nọ, nhưng cuối cùng lại được điều cốt yếu nhất, được mọi người yêu thương quí mến, được hạnh phúc, được sống phong phú dồi dào nhất.

Đức Giêsu đã mặc khải và chứng tỏ sự thực ấy bằng chính cuộc đời đau khổ và cái chết của Ngài. Ngài đã đau khổ nhất, chết thê thảm nhất, để rồi được hạnh phúc nhất, vinh quang nhất. Đau khổ được chấp nhận càng lớn, thì hạnh phúc và vinh quang nhờ đó đạt được càng nhiều hơn gấp bội (x. Rm 8,18). Ngược lại, càng muốn hưởng hạnh phúc mà không chấp nhận đau khổ thì càng gặp đau khổ và hạnh phúc càng trở nên xa vời. Sự thật đó đâu có lạ lẫm gì, nó vẫn xảy ra hằng ngày trước mắt ta.

Một học sinh chấp nhận vất vả học hành thì về sau đạt được bằng cấp cao, có việc làm danh giá, thu nhập cao. Còn học sinh lười biếng thì về sau dễ bị thất nghiệp, phải chấp nhận những công việc rất nặng nhọc mà đồng lương chẳng được bao nhiêu. Một người cha làm việc thật vất vả trong xưởng thợ thì cuối tháng sẽ đem về đưa cho gia đình mình một khoản tiền lớn, được vợ con đón nhận thật vui vẻ. Nhờ món tiền đó cả gia đình được đầy đủ, no ấm suốt tháng. Đối với người cha, cảnh gia đình ấm no, hạnh phúc chính là một trong những nguồn hạnh phúc lớn nhất trên đời. Còn những người cha suốt ngày nhậu nhẹt say sưa thì thường bị vợ con phàn nàn oán trách, và gia đình chẳng khác gì hỏa ngục.



2.   Người thân của ta có thể cản trở ta làm theo ý Chúa

Muốn quên mình hy sinh, muốn sống cho tha nhân, muốn xả thân để giúp Giáo Hội được phát triển, muốn làm cho xã hội và đất nước được hạnh phúc thì bản thân mình phải hy sinh, phải chấp nhận đau khổ. Tuy nhiên những người thân yêu bên cạnh ta – cha mẹ, vợ con, anh em, bạn bè – vì thương ta, lại không muốn ta khổ, nên tìm cách ngăn cản, không để ta dấn thân vào con đường gian khổ. Tương tự như Phêrô đã ngăn cản Đức Giêsu đi vào con đường thập giá. Rất nhiều người vì nể người thân nên xiêu lòng và bỏ cuộc. 

Nhưng ta thấy Đức Giêsu đã phản ứng lại với Phêrô một cách rất mãnh liệt. Ngài đã đặt lời mời gọi hay thánh ý của Cha Ngài lên trên ý muốn của tất cả mọi người và cả ý riêng của Ngài nữa. Chuyện gì phải làm, lương tâm buộc phải làm, hay Thiên Chúa muốn Ngài làm, thì Ngài không để người khác cản trở Ngài. Nhiều vị thánh đã xử sự như vậy.

Thiết tưởng khi thấy người thân yêu của mình sẵn sàng hiến thân hy sinh cho Thiên Chúa và tha nhân vì tình yêu của họ, ta nên khuyến khích và ủng hộ họ thay vì ngăn cản họ, cho dù việc ngăn cản đó là do ta yêu họ, không muốn họ khổ. Trong lịch sử Trung Quốc, mẹ của Từ Thứ bị bạo vương Tào Tháo giữ làm con tin. Lúc đó Từ Thứ đang phục vụ dưới trướng của Lưu Bị – đối thủ của Tào Tháo – mà ông và cả mẹ ông coi là một minh quân. Khi Tào Tháo muốn dùng mẹ của Từ Thứ để làm áp lực tình cảm buộc Từ Thứ phải về phục vụ mình, bà đã tự vẫn để con mình được hoàn toàn tự do trong việc phục vụ đất nước, để con không vì đạo hiếu với mẹ mà phản bội lại vị minh quân mình đang phục vụ. Bà quả là một phụ nữ thật anh hùng! 

Có những bà mẹ khi thấy con sợ chết nên phản bội đất nước hay không dám hy sinh cho đại nghĩa, đã phiền trách hay sửa phạt con thật nghiêm khắc. Không phải những bà mẹ ấy không thương con, mà họ muốn con họ chấp nhận một đau khổ nhỏ hơn để đạt được một hạnh phúc hay vinh quang lớn hơn gấp bội.



3. «Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo»

Đức Giêsu cho những ai muốn theo Ngài biết điều kiện quan trọng để theo Ngài là: «Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo» (Mt 16,24). Điều kiện của Ngài thật rõ ràng. «Từ bỏ chính mình» là từ bỏ tính ích kỷ để sống quên mình, vị tha; cụ thể là coi nhẹ «cái tôi» của mình, từ bỏ tham vọng được mọi người tôn vinh, được phục vụ, hoặc muốn sống trên đầu trên cổ người khác. Trong đoạn Tin Mừng Lc 14,28-33, Ngài còn yêu cầu những ai muốn theo Ngài phải lượng sức mình xem có thực hiện nổi điều kiện ấy không thì hãy theo, nếu thấy không thực hiện nổi thì nên rút lui.

Trong xã hội, để phục vụ đất nước một cách hữu hiệu thì cách tốt nhất là ra làm quan, làm vua. Một «minh quân» ích lợi cho đất nước hơn một «minh quan», và một «minh quan» ích lợi cho đất nước hơn một người dân tài đức. Nhưng nếu làm quan, làm vua mà không phải để phục vụ đất nước, mà chỉ để vinh quang cho mình, để được những lợi lộc ích kỷ, thì đó lại là cách hữu hiệu nhất để phá hoại đất nước. Thật vậy, «hôn quân» làm hại đất nước hơn «hôn quan», và «hôn quan» làm hại đất nước hơn trộm cướp ngoài đời. 

Tuy nhiên, dù là «minh quân» hay «hôn quân», «minh quan» hay «hôn quan» thì cả hai đều mang danh là phục vụ đất nước cả, nhưng tính chất của hai loại người đó hoàn toàn khác nhau. «Minh quân» hay «minh quan» thì làm vua hay làm quan là để phục vụ đất nước, họ sẵn sàng quên mình, từ bỏ mình, chấp nhận đau khổ vì mục đích ấy. Còn «hôn quân» hay «hôn quan» thì muốn làm vua hay làm quan là để thăng tiến cá nhân, để được tôn vinh, được nắm quyền sai xử người khác, để sống trên đầu trên cổ mọi người. 

Cũng mang danh phục vụ đất nước, nhưng một đằng coi «cái tôi» của mình chỉ là phương tiện để phục vụ mọi người, còn một đằng coi «cái tôi» của mình là mục đích và muốn biến mọi người thành phương tiện phục vụ cho mình.

Cũng vậy, trong Giáo Hội, người ta vẫn có thể «theo Chúa» vì hai động lực trái nghịch nhau: có thể vì Chúa, vì Giáo Hội, vì tha nhân mà theo Chúa, nhưng cũng có thể vì mình, vì «cái tôi» của mình, vì muốn thăng tiến bản thân mà theo Ngài. Hai loại này một đằng xây dựng, đem lại vinh quang cho Thiên Chúa và Giáo Hội, một đằng phá hoại, làm ô danh Thiên Chúa và Giáo Hội. 

Người theo Ngài đích thực rất dễ nhận ra qua việc thực hiện những điều kiện Ngài đưa ra: «Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo» (Mt 16,24). Nghĩa là họ sống quên mình, sống vị tha, sẵn sàng chấp nhận «vác thập giá mình» sẵn sàng chịu đau khổ, thiệt thòi vì Chúa, vì tha nhân. Còn người theo Ngài vì mục đích kém cao thượng cũng rất dễ nhận ra qua cách hành xử đầy tính vị kỷ của mình: thích ăn trên ngồi trốc, sẵn sàng bảo vệ quyền bính với bất cứ giá nào, thích đề cao chức vụ của mình, thích sống sang trọng hơn người, thường phân biệt giàu nghèo, trọng giàu khinh nghèo rõ ràng, v.v… 

Nhưng kết quả cuối cùng khi Chúa đến trong vinh quang là kẻ vị tha sẽ hạnh phúc muôn đời, còn kẻ vị kỷ sẽ gặp rất nhiều đau khổ. Vì «kẻ gieo gió thì phải gặt bão» (Hs 8,7), «kẻ gieo công chính thì sẽ gặt được tình thương» (Hs 10,12). Những kẻ mang danh theo Chúa vì mục đích ích kỷ, vào ngày cuối cùng họ sẽ nói với Chúa: «Nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?» (Mt 7,22); lúc đó họ sẽ rất ngạc nhiên khi Ngài nói: «Ta không hề biết các ngươi, xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác» (Mt 7,23). 



CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, theo Đức Giêsu chính là sống yêu thương, vị tha, xả thân, quên mình, sẵn sàng chấp nhận đau khổ, thiệt thòi để những người chung quanh mình được hạnh phúc. Làm như thế, trước mắt phải chịu mất mát, đau khổ, nhưng kết quả của nó thật tuyệt vời, hạnh phúc. Trái lại, lối sống ích kỷ, chỉ biết lo cho mình, trước mắt được lợi nhiều thứ, nhưng kết quả là đau khổ, và đau khổ lớn nhất là mất chính bản thân mình. Xin cho con nhận ra điều ấy để biết lối sống nào là ích lợi cho con nhất.


Share:

Chủ Nhật, 20 tháng 8, 2017

TN21b - «Linh đạo tuyên xưng» và «linh đạo sống»



CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 21 Thường Niên

(27-8-2017)

Bài đào sâu

«Linh đạo tuyên xưng» và «linh đạo sống»



  TIN MỪNG: Mt 16, 13-20

Ông Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa


CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1. Khi Phêrô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, ông có thật sự tin ở bên trong, hay chỉ tuyên xưng ngoài miệng mà thôi? Xét lại những tuyên xưng của chúng ta, chúng ta có xác tín đích thực bên trong rồi mới tuyên xưng ra bên ngoài? hay chỉ là tuyên xưng ngoài miệng mà thôi?
2. Câu Đức Giêsu nói với Phêrô cần được hiểu thế nào? Đó có thể là một lời mời gọi mọi Kitô hữu ý thức hãy trở nên đá tảng làm nền móng Giáo Hội không?

Suy tư gợi ý:

1. Phêrô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu

Phêrô là một trong ba môn đệ được Đức Giêsu yêu quí nhất – hai người kia là Gioan và Giacôbê – vì ông là một con người thuần thành, chân thật và nhiệt tình, mặc dù có chút ít sốp nổi, bốc đồng. Điều đáng quí nhất là tư tưởng, lời nói và hành động của ông là một, không bất nhất, không mâu thuẫn nhau.

Khi tuyên xưng Đức Giêsu là «Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống» (Mt 16,16), thì đích thực ông nghĩ như vậy, ông sống như vậy, và ông hành động đúng như vậy. Vì thế, ông đã tuyên bố những điều phát xuất từ trái tim ông như: «Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã (…) Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy» (Mt 26,33.35). Tuy nhiên, ông không ngờ được sự yếu đuối, hèn nhát vẫn là mẫu số chung của con người, trong đó có ông. Khi nói những điều ấy, ông không ngờ được là có ngày ông bị Đức Giêsu trách: «Simon, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ với Thầy sao?» (Mc 14,37), hoặc ông không ngờ lời báo trước của Đức Giêsu lại có thể ứng nghiệm được đối với ông: «Gà chưa kịp gáy hai lần, thì anh đã chối Thầy đến ba lần» (Mc 14,72).


2. Việc tuyên xưng của chúng ta thì sao?

Phêrô cả đời chỉ tuyên xưng và sống hết mình với niềm tin đó, và ông cũng chết vì niềm tin đó. Ông không kết án những ai không tuyên xưng hoặc tuyên xưng khác với mình. Còn chúng ta thì sao?

Có lẽ có nhiều người trong chúng ta tuyên xưng đức tin rất mạnh, rất lớn tiếng, trong những nghi thức rất long trọng, trước mặt rất nhiều người. Và chúng ta sẵn sàng kết án hoặc tỏ ra khó chịu với những ai không tuyên xưng như chúng ta, hoặc tuyên xưng khác với chúng ta. Nhưng cuộc sống của chúng ta thì lại xem ra khá độc lập với những lời tuyên xưng ấy. Chúng ta tuyên xưng một đằng, nhưng sống và hành động một đằng khác. Tại sao thế?

– Vì nhờ tuyên xưng mà chúng ta được lên chức, được gia nhập một cộng đoàn, một tổ chức, một hội nào đấy, rất có thể có lợi cho cuộc sống hay sự thăng tiến của chúng ta. Mà tuyên xưng thì rất dễ, chẳng mất một giọt mồ hôi nào, cho dù có tuyên xưng mạnh mẽ, lớn tiếng hay trọng thể đến đâu. Còn sống theo lời tuyên xưng ấy là cả một vấn đề gay go, phải «đổ mồ hôi, sôi nước mắt», hoặc phải «trầy da tróc vẩy», phải đau đớn, thậm chí phải chết. Vì thế, rất nhiều người tuyên xưng mà không sống lời tuyên xưng ấy.

– Vì tự bản chất của vấn đề, việc suy nghĩ trong thâm tâm và việc tuyên xưng ra bên ngoài có thể độc lập với nhau hoặc mâu thuẫn nhau, nhất là nơi những người thiếu thành thật. Câu «khẩu Phật, tâm xà» nói lên sự mâu thuẫn ấy có thể xảy ra. 

Còn những ai suy nghĩ và việc hành động đi đôi với nhau, thì họ suy nghĩ thế nào họ cũng hành động như vậy: tư tưởng hướng dẫn hành động. Chỉ với những người thành thật và có sức mạnh nội tâm, thì việc suy nghĩ bên trong, tuyên xưng bên ngoài, và hành động hay cách xử sự luôn luôn nhất quán, trùng hợp nhau. Tuy nhiên, với những người ý chí yếu đuối, dù rất thành thật, thì hành động đôi khi đi ngược lại với suy nghĩ và lời nói, vì «lực bất tòng tâm», như trường hợp Phêrô chối Chúa chẳng hạn.


3. «Linh đạo tuyên xưng» và «linh đạo sống»

Trong đời sống Giáo Hội, việc tuyên xưng ra ngoài miệng đóng vai trò quan trọng. Một số bí tích quan trọng đòi buộc phải có hành vi tuyên xưng như một điều kiện quan trọng không thể thiếu, như rửa tội, truyền chức và hôn phối. Một số nghi thức tôn giáo để gia nhập một cộng đoàn nào đó cũng vậy: khấn dòng, tuyên hứa hay cam kết để gia nhập hội đoàn. Trong thánh lễ, ta tuyên xưng đức tin trong kinh tin kính, trong lời tung hô sau truyền phép, v.v...

Việc tuyên xưng ấy rất cần thiết, nhưng rất có thể vẫn có nhiều trường hợp người ta tuyên xưng một đằng, mà nghĩ, hành động, hay sống lại một đằng khác. Vì người Kitô hữu chúng ta rất thường xuyên tuyên xưng điều này điều kia, nên đôi khi chúng ta tuyên xưng một cách vô ý thức, rất máy móc, và quên không cố gắng sống cho phù hợp với những tuyên xưng ấy. Vô tình hay hữu ý chúng ta có thể trở thành những kẻ «ngôn hành bất nhất», trái với mệnh lệnh của Đức Giêsu: «Hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm thắt điều gì là do ác quỷ» (Mt 5,37). 

Muốn biết chúng ta có phải là loại người như thế hay không, hãy thử xét xem cách ta sống có khác với những người không tuyên xưng như ta hay không, nếu khác thì khác như thế nào, và ở mức độ nào. Lẽ ra người tuyên xưng và kẻ không tuyên xưng phải sống khác xa nhau lắm!

Đối với con người – vốn không đọc được những suy nghĩ bên trong người khác – thì việc tuyên xưng ra bên ngoài là quan trọng. Nhưng đối với Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm hồn người ta, thì việc ta sống đúng theo suy nghĩ hay quyết tâm của ta mới là quan trọng. Vì thế, người sống đạo nội tâm không nên đặt quá nặng việc tuyên xưng. Có những người tự hứa hay tự khấn với Thiên Chúa điều gì, chỉ mình và Thiên Chúa biết với nhau, và họ cố gắng giữ thật trọn vẹn lời khấn hứa ấy. Những người này có giá trị rất lớn lao trước mặt Thiên Chúa, hơn rất nhiều những người tuyên khấn thật trọng thể – trước vô số người tham dự, trong đó có cả những nhân vật cao cấp trong Giáo Hội nghe và nhận lời tuyên khấn ấy – nhưng lại không giữ lời tuyên khấn ấy. Thế nhưng lắm người coi việc làm cho thật trọng thể lời tuyên khấn còn quan trọng hơn cả việc sống trung thực lời tuyên khấn ấy. Họ tuyên khấn thật trọng thể chỉ để khuyên người khác giữ, còn chính họ không thèm giữ!

Thiết tưởng thái độ nội tâm khi tuyên xưng mới là quan trọng, người Kitô hữu cần nhấn mạnh đến thái độ đó hơn cả chính việc tuyên xưng ra ngoài! Sự xác tín ở bên trong phải có trước đã, còn việc tuyên xưng tuy cần thiết về mặt xã hội hoặc Giáo Hội, nhưng chỉ là phụ thuộc! Xác tín bên trong không có, mà lại tuyên xưng bên ngoài thì thật là giả dối!



4. Những người xác tín thật sự bên trong rồi mới tuyên xưng ra bên ngoài là những viên đá nền tảng của Giáo Hội

Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, một đức tin có thật bên trong, một đức tin mà ông sẵn sàng sống chết với nó, thì Đức Giêsu tuyên bố: «Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi» (Mt 16,18). Điều đó cho thấy những ai có đức tin mãnh liệt thật sự, và chứng tỏ đức tin ấy bằng cuộc sống, bằng những hành động phù hợp, thì Đức Giêsu muốn những người ấy là đá tảng của Giáo Hội. 

Quả thật Giáo Hội rất cần những Kitô hữu như thế, cho dù họ là giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ hay giáo dân! Chức vụ hay phẩm trật của họ trong Giáo Hội không phải là chuyện quan trọng cho bằng phẩm chất Kitô hữu của họ! Càng thiếu phẩm chất Kitô hữu mà càng giữ những chức vụ cao trong Giáo Hội, thì càng làm hại Giáo Hội, càng làm Giáo Hội suy yếu, chứ chẳng phải là làm nền tảng cho Giáo Hội đâu! Thật vậy, Giáo Hội đã phải nhiều phen điêu đứng và bị lung lay vì những ông giáo hoàng hay giám mục kém phẩm chất! Những vị này chỉ tuyên xưng đức tin ra bên ngoài để được phong chức, mà không có niềm xác tín đích thực bên trong! Những vị ấy dù có là giáo hoàng cũng không thể là đá tảng của Giáo Hội được!

Qua việc tuyên xưng đức tin của Phêrô và lời tuyên bố tín nhiệm của Đức Giêsu, ta thấy mọi Kitô hữu – không trừ ai – đều được kêu gọi trở nên đá tảng của Giáo Hội bằng một đức tin có thật, sâu xa, mãnh liệt, và được tuyên xưng ra bên ngoài không chỉ bằng lời nói, mà chủ yếu bằng hành động, bằng chính đời sống dấn thân của mình. Giáo Hội mà thiếu những Kitô hữu như thế – dù họ chỉ là giáo dân – thì đã bị đào thải và sụp đổ từ lâu rồi. Giáo Hội mà có thật nhiều Kitô hữu như thế thì «quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi» (Mt 16,18), và sẽ là một nhịp cầu chắc chắn nối liền thế giới với Thiên Chúa. Một Giáo Hội như thế sẽ là một hồng phúc cho cả nhân loại.




CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, từ trước đến nay, lời Đức Giêsu nói với thánh Phêrô con cứ nghĩ là Ngài chỉ nói với những vị mà Ngài chọn làm giáo hoàng mà thôi. Nhưng nghĩ sâu xa và phổ quát hơn, con nhận ra Ngài nói với tất cả mọi Kitô hữu, Ngài mời gọi họ trở nên đá tảng của Giáo Hội, bằng cách bắt chước Phêrô: thật sự xác tín về Thiên Chúa và Đức Giêsu ở bên trong, rồi sau đó tuyên xưng ra bên ngoài bằng chính đời sống của mình. Xin giúp con biết quảng đại đáp lại lời mời gọi ấy. Amen.


Share:

TN21a - Đức Giêsu hỏi ta: Ngài là gì đối với ta? Ta trả lời thế nào?




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 21 Thường Niên

(27-8-2017)

Đức Giêsu hỏi ta: Ngài là gì đối với ta? Ta trả lời thế nào?



ĐỌC LỜI CHÚA

  Is 22, 19-23: (22) Chìa khoá nhà Đavít, Ta sẽ đặt trên vai nó. (23) Ta sẽ làm cho nó vững chắc như đinh đóng cột, nó sẽ nên như ngai vinh hiển cho nhà cha nó.

  Rm 11, 33-36: (33) Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được!

  TIN MỪNG: Mt 16, 13-20

Ông Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa

(13) Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng: «Người ta nói Con Người là ai?» (14) Các ông thưa: «Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ».

(15) Đức Giêsu lại hỏi: «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?» (16) Ông Simôn Phêrô thưa: «Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống».  (17) Đức Giêsu nói với ông: «Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.  

(18) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.  (19) Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy».  (20) Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô.




CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1. Nếu Đức Giêsu hỏi bạn: «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?», bạn sẽ trả lời thế nào? Theo kiểu trả bài những gì đã học được, hay theo thực tế đời sống của bạn? Nếu theo thực tế đời sống, bạn trả lời thế nào?
2. Đức Giêsu là gì đối với ta? Là nhân vật quí giá và cần thiết nhất đối với ta khiến ta luôn luôn gắn bó, hay chỉ như một ai đó chẳng thân thiết bằng cha mẹ, vợ con, bạn bè ta, chẳng quan trọng bằng của cải, sự nghiệp của ta?
3. Tại sao ta theo Đức Giêsu mấy chục năm, nhưng đời sống tâm linh ta chẳng mạnh mẽ bao nhiêu, đời sống ta vẫn chẳng hạnh phúc thật sự? Có phải vì trong thực tế Ngài chẳng là gì đối với ta cả?


Suy tư gợi ý:

1. Những gì mình nghe nói và những gì chính mình nhận định khác nhau thế nào?

Một bà mẹ nghe chị hàng xóm nói về con mình, chị khen nó đủ mọi mặt như một đứa trẻ thật gương mẫu. Bà mẹ nhận ra trong những lời khen ấy có những lời đúng, có những lời quá đáng, và có những lời hoàn toàn sai sự thật. Bà có nhận định riêng của mình về con bà. Cùng nhìn về một đứa trẻ, nhưng hai người có hai nhận định khác nhau. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hỏi các môn đệ mình hai câu hỏi khác nhau về Ngài: «Người ta nói Con Người là ai?», và «Anh em bảo Thầy là ai?» Hai câu hỏi ấy là hai câu hỏi mà Ngài muốn mỗi người chúng ta trả lời.

Câu hỏi thứ nhất có thể diễn dịch lại cách mới mẻ cho phù hợp với các Kitô hữu thời nay như sau: «Anh chị đã học hỏi những gì về Thầy? Các linh mục hay các giáo lý viên đã dạy anh chị về Thầy thế nào?» Với những người đã học thần học ở trường lớp, câu hỏi có thể là: «Các tín điều trong Giáo Hội hay môn Kitô học đã xác định về Thầy thế nào?» Để trả lời câu hỏi này, ta có thể trả lời theo kiểu trả bài những gì ta đã học được về Ngài, một cách thật khách quan, không có ý kiến hay cảm nghĩ gì của ta cả. Câu trả lời này hoàn toàn lý thuyết, nó không trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của ta hoặc làm ta thay đổi bao nhiêu.

Câu hỏi thứ hai có thể diễn dịch lại cách mới mẻ cho ta như sau: «Anh chị nghĩ gì và quan niệm thế nào về Thầy? Thầy là gì của anh chị? Thầy có đóng một vai trò gì trong cuộc đời anh chị không? Vai trò đó thế nào? Đối với anh chị, Thầy là một nhân vật lịch sử trong quá khứ hay là một nhân vật đang sống trong hiện tại? Đối với anh chị, Thầy đang chủ yếu sống ở trên trời, trong nhà thờ, hay trong chính bản thân anh chị? Muốn gặp Thầy thì anh chị gặp ở đâu?» Để trả lời câu hỏi này, ta phải xét lại quan niệm thật sự của chính ta về Ngài, thái độ, cách sống và cách xử sự thực tế của ta đối với Ngài, chứ không thể trả lời cách lý thuyết được. Câu trả lời này ảnh hưởng mạnh mẽ và là phản ảnh chính xác đời sống tâm linh của ta.


2. Đức Giêsu là gì của ta?

Nếu Ngài chỉ là một nhân vật lịch sử, đã đến trong quá khứ của lịch sử nhân loại, cách đây 2000 năm, thì cho dù Ngài là ai, là con Thiên Chúa, là ân nhân vĩ đại nhất của nhân loại, v.v… Ngài cũng chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống ta bao nhiêu. Cho dù ta có hiểu rõ từng chi tiết cuộc đời Ngài, từng quan niệm, từng tư tưởng của Ngài, thì Ngài vẫn là một người xa lạ đối với ta, sống khác thời với ta. 

Nếu Ngài chỉ là một người hiện vẫn đang sống, nhưng chỉ sống ở trên trời cùng với Thiên Chúa Cha, với các thiên thần và các thánh, thì quả thật ta không dễ gì mà gặp Ngài. Nếu Ngài chỉ hiện diện trong nhà tạm, trên bàn thờ, trong hình bánh rượu của phép Thánh Thể, thì ta có thể gặp Ngài mỗi khi ta đến nhà thờ để cầu nguyện, để dâng thánh lễ; và Ngài có thể ngự vào lòng ta trong chốc lát khi ta rước lễ; ngoài ra, Ngài vẫn là người ở bên ngoài ta.

Hay Ngài là một người rất thân thiết với ta, hơn cả những người thân yêu nhất của ta, hiện diện ngay trong bản thân ta, và là phần quan trọng nhất của bản thân ta? Ta có thể nói như thánh Âu Tinh: Ngài còn «thân thiết với tôi hơn cả chính tôi thân thiết với tôi nữa»? hay như thánh Phaolô: «Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi» (Gl 2,20)?

Đức Giêsu là gì đối với ta, điều đó tùy thuộc một phần vào những gì ta nghe nói hay học hỏi về Ngài, và phần khác vào sự dấn thân của ta cho Ngài sau khi đã được nghe nói về Ngài. Chỉ sau khi dấn thân theo những lời mời gọi mà ta nghe được từ sâu thẳm lòng mình của Ngài, ta mới cảm nghiệm được Ngài thật sự sống động và ở ngay trong bản thân ta, làm nên phần bản thể cao quý nhất và thâm sâu nhất của ta. Ngài đã ở trong ta, và làm nên phần thiêng liêng cao quý nhất của ta trước khi ta nghe nói hay biết đến Ngài. Câu trả lời thứ hai này ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tâm linh ta.



3. Đời sống tâm linh của ta tùy thuộc ta trả lời thế nào cho câu hỏi: «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?»

Ta quyết định cho Ngài là gì đối với ta, điều đó tùy thuộc vào tự do của ta, thứ tự do mà Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng. Nhưng câu trả lời cho câu hỏi «Ngài là gì đối với ta?» quyết định tính chất đời sống tâm linh của ta. Nếu ta cho rằng Ngài là đối tượng cao quí nhất trên đời, hơn tất cả bất kỳ những gì còn lại – hơn cả cha mẹ, người yêu, tiền bạc, của cải, sự nghiệp, quyền lực – và ta sẵn sàng hy sinh tất cả để có được Ngài, để đạt được ngài, thì thái độ tự nhiên và tất yếu của ta sẽ là sẵn sàng hy sinh tất cả để có Ngài. Tương tự như người đi tìm ngọc quý, khi tìm được, anh về bán hết tất cả mọi thứ mình có để mua cho bằng được viên ngọc ấy (x. Mt 13,45-46), vì anh cho rằng viên ngọc ấy quý giá gấp bội gia tài anh đang có.

Vấn đề quan trọng là phải xác định tại sao Đức Giêsu lại quý giá đối với ta đến nỗi ta nên sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được Ngài? Đạt được Ngài thì ta được gì? – Ngài chính là phần cao quý nhất, thiêng liêng và thâm sâu nhất của chính bản thân ta. Ngài chính là món quà quí báu nhất mà Thiên Chúa ban cho ta, là phần quan trọng làm nên yếu tính của ta, nhờ đó ta được «được thông phần bản tính Thiên Chúa» (2Pr 1,4). Ngài chính là sự hiện diện của Thiên Chúa ở trong bản thân ta, là sức mạnh, là tình yêu, là sự sống của ta. Vì thế, khi ta «» Ngài nhờ thái độ sẵn sàng hy sinh tất cả để được Ngài, thì ta trở nên «đồng hình đồng dạng» với Ngài (Rm 8,29; Pl 3,10), nghĩa là tràn đầy yêu thương, sức sống và sức mạnh. Nhờ đó, ta được giải phóng khỏi cảnh nô lệ cho chính bản thân ta, cho tính ích kỷ, cũng là nô lệ cho tội lỗi, để sống vị tha (vì Thiên Chúa và vì tha nhân), để luôn yêu thương và luôn quan tâm đến hạnh phúc của mọi người.

Món quà quý báu mà Thiên Chúa ban cho ta – là Đức Giêsu hay sự hiện diện của Thiên Chúa ở trong ta – vốn đã sẵn có trong bản chất của ta, nhưng ta không hề biết, hay chỉ biết một cách lý thuyết. Vì thế, ta không có sức mạnh và tình yêu đúng như ta phải có. Đức Giêsu ở trong ta dường như ở trong tình trạng ngủ say tương tự như khi Ngài ngủ trong thuyền của các môn đệ giữa cơn bão biển gầm thét, đe dọa (x. Mc 4,35-41). Có Ngài ở trong ta, nhưng Ngài chẳng tác động gì cả, chẳng khác gì Ngài vắng mặt. Tại sao? 

Vì đối với câu hỏi «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?» ta chỉ biết trả lời cách máy móc những gì ta học được về Đức Giêsu từ Giáo Hội. Trong khi đó, cách sống thực tế của ta thì trả lời ngược lại: Ngài dường như chẳng là cái thá gì đối với ta cả, ta vẫn coi rất nhiều thứ khác trọng hơn Ngài và trọng hơn nhiều. Ta vẫn coi «cái tôi» của ta quan trọng hơn Ngài rất nhiều, coi ý muốn của ta quan trọng hơn ý muốn Ngài rất nhiều. Như vậy Ngài chẳng là gì đối với ta cả! Vì thế, Ngài ở trong ta mà vẫn như người ngủ quá say, ta vẫn yếu đuối, vẫn thấp hèn, chẳng hơn gì những kẻ không tin.

Ngài chỉ trở nên sống động và đem lại sức mạnh, tình yêu, bình an, hạnh phúc cho ta khi nào ta thật sự coi Ngài là Chúa tể của lòng ta, là lẽ sống của ta, là cái quí giá nhất ở trong ta. Ngài chỉ có thể tác động mạnh mẽ trong ta khi ta coi Ngài hơn tất cả mọi thứ trên đời, hơn chính bản thân ta, coi ý Ngài hơn ý ta, và toàn con người của ta bị Ngài thu hút thật sự. Chỉ khi ấy, ta mới nhận ra sức mạnh của Ngài ở trong ta thật mãnh liệt. 

Ta hãy thử sống như Ngài là tất cả của ta, là lẽ sống của ta xem, ta sẽ có kinh nghiệm về sức mạnh của Ngài ở trong ta. Và ta sẽ trở thành những viên đá thật sự cho tòa nhà Giáo Hội. Nếu không, dù ta có là người lãnh đạo cao nhất trong Giáo Hội, ta cũng chẳng phải là đá làm nền cho Giáo Hội đâu! Khi ấy, Giáo Hội mà được xây trên ta thì chỉ như xây trên cát thôi!




CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, Giáo Hội của Đức Giêsu chỉ có thể được xây dựng vững chắc trên những tâm hồn chọn Ngài là lẽ sống cuộc đời mình, coi Ngài là «viên ngọc» quý giá hơn tất cả mọi thứ của trần gian, sẵn sàng hy sinh tất cả, kể cả bản thân, để đạt được «viên ngọc» ấy. Xin cho con trở thành một người như thế, và cho Giáo Hội càng ngày càng có nhiều người như thế, để nền tảng Giáo Hội vững chắc hơn, không một thế lực nào có thể lay chuyển được.


Share:

Chủ Nhật, 13 tháng 8, 2017

TN20b - Đức tin sống động rất cần thiết cho đời sống tâm linh

CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 20 Thường Niên

(20-8-2017)

Bài đào sâu

Đức tin sống động,
chứ không phải đức tin theo lý thuyết,
rất cần thiết cho đời sống tâm linh



  TIN MỪNG: Mt 15,21-28

Đức Giêsu chữa con gái người đàn bà Canaan


CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1.       Tại sao Đức Giêsu lại đối xử với người phụ nữ Canaan một cách có vẻ kém nhân bản như thế? Ta có nên bắt chước Ngài cư xử như thế với người ngoại giáo không?
2.       Đức Giêsu thử thách niềm tin người phụ nữ Canaan. Ngài có thử thách ta như vậy không? để làm gì? có cần thiết và ích lợi cho ta không?

Suy tư gợi ý:

1. Thái độ đạo sư của Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này

Để hiểu thái độ của Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này, ta nên đặt Ngài ở vị thế của một đạo sư Đông phương chứ không phải của một người thông thường. Các đạo sư Đông phương nhiều khi có những cách hành xử khác thường, với mục đích giáo dục (cho một bài học) hoặc thử thách (gây khó khăn) người đệ tử. Đó không phải là những hành động Ngài muốn làm gương để mọi người bắt chước. 

Chẳng hạn thiền sư Đơn Hà chẻ tượng Phật trong chùa ra làm củi để sưởi vì đệ tử kiếm củi không ra. Mục đích của ông không phải để các đệ tử từ nay cứ thế mà bắt chước ông, mà để dạy cho họ biết Phật không phải là những bức tượng bằng vật chất, mà là một thực thể sinh động và thiêng liêng ở ngay trong tâm hồn của mỗi người, như ông vẫn thường nói: «Tức Tâm tức Phật». Ông làm thế vì thấy các đệ tử quá chú trọng vào những nghi thức bề ngoài trước tượng Phật, mà quên bổn phận quan trọng hơn rất nhiều là phải ý thức tâm mình mới là Phật đích thực, và phải tu tâm, tức tập sống cho xứng với phẩm giá cao quí đó.



2. Giải thích tình huống trong bài Tin Mừng

Đức Giêsu và và môn đệ lúc này đang ở miền Tia và Xiđôn, không thuộc vùng đất của Do Thái. Đây là một dịp tốt khiến Ngài ý thức lại sứ mạng loan báo Tin Mừng cho dân ngoại và cứu độ họ. Còn Canaan là một trong những tên cũ của vùng Palestin, vốn là một dân tộc thù nghịch với Dân Do Thái từ thời các tổ phụ đến nay. 

Ban đầu, Thiên Chúa hứa cho Abraham vùng đất của dân Canaan (x. St 12,6-7; 15,18), và dân Do Thái đã phải chiến đấu rất cam go – khi thắng khi bại – với họ để chiếm lấy đất ấy (x. Xh 23,23-24; Gs 3,10; Tl 1,9-10). Thái độ cố hữu của người Do Thái là tỏ ra không ưa người Canaan , nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm, khó chịu và muốn xua đuổi của các tông đồ đối với người phụ nữ Canaan là một điển hình: xem ra các ông chẳng có cảm tình với bà. Trong bài Tin Mừng này, người phụ nữ Canaan đại diện cho dân ngoại.

Tâm tình của Đức Giêsu đối với bà này không phải giống như các tông đồ hay người Do Thái, vì Ngài cũng có sứ mạng đối với dân ngoại, nên Ngài cũng rất yêu thương họ. Nhưng Ngài lại tỏ thái độ xem ra không thân thiện lắm đối với bà này vì Ngài có dụng ý của Ngài. Thái độ của Ngài là một sứ điệp chủ yếu cho các tông đồ và người Do Thái hơn là cho bà ấy. Ngài chỉ muốn thử thách bà ấy một chút thôi.



3. Thái độ và chủ ý của Đức Giêsu

Người phụ nữ Canaan này có đứa con gái bị quỷ ám, đương nhiên là đáng thương. Bà xin Ngài chữa cho con bà. Nhưng Ngài lại nói với các môn đệ : «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ítraen mà thôi». Thực ra Tin Mừng và ơn cứu độ là dành cho mọi người, mọi dân tộc, nhưng trước tiên là dành cho dân Do Thái, sau mới tới các dân tộc khác. Tuy nhiên, mỗi sự mỗi việc đều có thời điểm của nó. Vào thời điểm Đức Giêsu nói câu này, Tin Mừng và ơn cứu độ đang ở giai đoạn dành cho người Do Thái. Chính Ngài đã từng ra lệnh cho các môn đệ: «Tốt hơn, anh em hãy đến với các con chiên lạc nhà Ítraen» (Mt 10,6). Nhưng sẽ tới thời điểm Đức Giêsu ra lệnh cho các ông: «Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ …» (Mt 28,19).

Đối với các môn đệ, Đức Giêsu muốn chuẩn bị báo trước cho các ông sơ đồ sự việc sẽ xảy ra: Tin Mừng và ơn cứu độ được Ngài rao giảng ưu tiên cho người Do Thái, và sau đó người Do Thái có nhiệm vụ đem Tin Mừng và ơn cứu độ ấy đến với muôn dân. Nhưng sơ đồ ấy đã không xảy ra, vì chính người Do Thái đã từ chối ưu tiên ấy. Dụ ngôn những tá điền sát nhân (x. Mt 21,33-46; Mc 12,1-12; Lc 20,9-19), và dụ ngôn tiệc cưới (x. Mt 22,1-14; Lc 14,15-24) nói lên sự từ chối ấy. Vì thế, Tin Mừng và ơn cứu độ được đem ra rao giảng cho dân ngoại. Thánh Phaolô cũng nói lên điều ấy trong thư Rôma 9,25-33. 

Đức Giêsu đến với người Do Thái, nhưng nói chung họ đã không tin Ngài, thậm chí đã giết Ngài. Trái lại, chính dân ngoại lại tin vào Ngài, và vì thế họ được cứu độ. Điều quan trọng để được cứu là họ phải tin vào Ngài, điều này được chứng tỏ trong việc Ngài cứu con gái người phụ nữ Canaan có niềm tin rất đáng trân trọng này.


Đức Giêsu, với tư cách một đạo sư, đã thử thách lòng tin của người phụ nữ Canaan. Vả lại, qua việc biểu lộ niềm tin của bà ta, Ngài cũng muốn cho các môn đệ thấy rằng: ai tin vào Ngài, dù là dân ngoại, đều được Ngài xót thương và cứu độ. Chính vì thế, Ngài đã nói với bà những lời mà khi nghe ta cũng phải chạm tự ái thay cho bà, và có thể ta thầm trách Đức Giêsu đã quá tàn nhẫn, hoặc đã quá coi thường dân ngoại. Vì Ngài ví dân Do Thái như con cái trong nhà (=con người), còn dân ngoại như chó (=thú vật) chỉ đáng ăn đồ thừa của con cái; như vậy quả thật là quá đáng! Nhưng Ngài cố ý nói như thế để thử thách niềm tin của bà chứ không phải Ngài khinh bỉ bà như thế. Vả lại, Đức Giêsu chỉ làm phép lạ khi người ta biểu lộ niềm tin. Ngài không thể làm phép lạ cho họ khi họ không tin (x. Mt 13,58). Người phụ nữ Canaan này đã tỏ ra niềm tin, lòng khiêm nhường và sự kiên nhẫn rất đáng khen, chính vì thế, bà đã được toại nguyện.



4. Thiên Chúa thử thách để củng cố và thánh hóa ta

Trong cuộc đời, rất nhiều khi ta bị/được Thiên Chúa thử thách, nghĩa là Ngài cố tình để ta lâm vào cảnh đau khổ, cùng khốn, khó khăn. Cả cuốn sách về ông Gióp trong Kinh Thánh nói lên sự thử thách có thể tới mức rất khủng khiếp của Ngài. Và thái độ của Đức Giêsu đối với người phụ nữ Canaan là một thí dụ. Nhưng cuộc thử thách nào cũng phát xuất từ tình thương vô biên của Ngài đối với ta. Vì thử thách trong một mức độ nào đó là rất cần thiết để giúp con người tiến bộ, phát triển đức độ hoặc tài năng. Qua thử thách ta mới được rèn luyện nên vững vàng, bản lãnh. Và nhờ có thử thách ta mới chứng tỏ được đức tin, đạo đức, tài năng hay bản lãnh của ta tới mức độ nào. 

Vì thế, Thiên Chúa luôn luôn thử thách con người, nhất là những người yêu mến Ngài và được Ngài yêu mến, những người Ngài đã tuyển chọn và kêu gọi, mục đích là để họ thăng tiến và xứng đáng hưởng vinh quang (x. Rm 8,30). Đến nỗi thánh Têrêxa Avila khi bị thử thách quá độ đã phải kêu lên: «Chúa đối xử với bạn thân của Chúa như vậy, hèn chi Chúa ít bạn thân là phải!». Vì thế, ta hãy tạ ơn Chúa khi được Ngài thử thách. Thử thách xong mà lại được toại nguyện như người phụ nữ Canaan thì thử thách đó cũng đáng mong ước!



5.       Hãy rút kinh nghiệm bài học lịch sử

Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói với các tông đồ: «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ítraen mà thôi» (Mt 15,24). Thiên Chúa và Đức Giêsu đã dành cơ hội ưu tiên cho người Do Thái trong việc tiếp nhận Tin Mừng và ơn cứu độ. Nhưng lịch sử cho thấy: chính người Do Thái đã từ chối ưu tiên ấy; thậm chí hiện nay đa số người Do Thái trên thế giới vẫn còn giữ đạo của Môsê, hay đạo của Cựu ước. Vì thế, các tông đồ đã quay sang rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, tức những người ngoài Do Thái thời đó. Và «dân ngoại» đã tiếp nhận Tin Mừng của Đức Giêsu, đã trở thành Kitô hữu, và hiện nay đã chiếm tới 1/3 thế giới, tức khoảng 1 tỷ người, trong đó có chúng ta.

Hiện nay, các Kitô hữu – chiếm 1/3 thế giới – đã thay thế dân Do Thái trong việc làm cầu nối giữa Thiên Chúa với thế giới, và có nhiệm vụ đem Tin Mừng đến cho 2/3 thế giới còn lại. Bài học lịch sử từ sự kiện dân Do Thái từ chối ưu tiên mà Thiên Chúa dành cho họ khiến chúng ta phải coi chừng kẻo chính chúng ta, Giáo Hội Công giáo hiện nay, lại đi vào chính vết xe đã đổ ấy. 

Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống ba «điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành» (Mt 23,23), là ba điểm cốt yếu về thực hành trong Do Thái giáo hay Kitô giáo. Nhưng rất có thể là chính người Kitô hữu lại coi thường những điều cốt yếu ấy để quan trọng hóa những điều phụ thuộc như các lễ nghi, những hình thức bề ngoài… không khác gì các Pharisêu thời trước (Mt 23,13-32; Mc 12,40; Lc 11,39-48; 20,47). 

Đang khi ấy, rất có thể người ngoài Kitô giáo lại sống những điều quan trọng ấy hơn chúng ta. Thật thế, nhiều tín đồ các tôn giáo khác sống tốt hơn chúng ta về những điều ấy. Vì thế, một cách nào đó, chúng ta không đáp ứng được điều Thiên Chúa chờ mong nơi chúng ta, là trở thành cầu nối giữa Ngài và tôn giáo, mà còn lại từ chối sự ưu tiên trong việc lãnh nhận ơn cứu độ vì cách sống thiếu tình thương của mình. Thánh Phaolô đã nói về tình trạng «chéo cẳng ngỗng» này trong rhư Rôma (x. Rm 2,12-29. Vậy, hãy cẩn thận để tránh vết xe đi trước đã đổ.



CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, xin cho con học được những bài học mà Đức Giêsu đã muốn cho con học qua cách hành xử của Ngài đối với người phụ nữ Canaan. Xin cho con nhận ra tình thương của Cha trong những cơn thử thách, những khi gặp khó khăn đau khổ, vì mục đích của Cha khi thử thách là muốn con thăng tiến hơn trên con đường hoàn thiện. Xin cho con trở thành cầu nối vừa giới thiệu vừa đem Cha đến với những người sống chung quanh con. Amen.



Share:

TN20a - Đức tin tạo nên sức mạnh để thành công




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 20 Thường Niên

(20-8-2017)

Đức tin tạo nên sức mạnh để thành công 
trong đời sống tâm linh và trần thế



ĐỌC LỜI CHÚA

  Is 56,1.6-7: (6) Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh (7) đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta.

  Rm 11,13-15.29-32: (13) Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại. Với tư cách là Tông Đồ các dân ngoại, (14) tôi làm cho anh em đồng bào tôi phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em đó.

  TIN MỪNG: Mt 15,21-28

Đức Giêsu chữa con gái người đàn bà Canaan

(21) Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđôn, (22) thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: «Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!» (23) Nhưng Người không đáp lại một lời.

Các môn đệ lại gần xin với Người rằng: «Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!» (24) Người đáp: «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ítraen mà thôi». (25) Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: «Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!» (26) Người đáp: «Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con». (27) Bà ấy nói: «Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống». (28) Bấy giờ Đức Giêsu đáp: «Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy». Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.



CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1.   Tại sao Đức Giêsu đối xử với người phụ nữ Canaan có vẻ như thiếu tình người và cũng mang tính phân biệt chủng tộc chẳng khác gì những người Pharisêu đối xử với bà?
2.   Đức Giêsu không làm được nhiều phép lạ cho những người Do Thái ở Nadarét (x. Mt 13,58), thế mà Ngài lại làm được phép lạ cho người phụ nữ ngoại giáo này. Tại sao? Việc biểu lộ quyền năng của Ngài cho họ hệ tại điều gì?
3.   Trên đời, có những người tinh thần rất mạnh mẽ, làm được nhiều việc tốt đẹp, to tát, và làm việc gì cũng dễ thành công. Nhưng cũng có những người tinh thần rất yếu đuối, dễ nản chí, làm việc gì cũng dễ thất bại. Họ khác nhau chủ yếu ở điểm nào? Nguyên nhân chủ yếu là gì?

Suy tư gợi ý:

1.   Bối cảnh bài Tin Mừng

Miền Tia và Siđôn – nơi Đức Giêsu và các môn đệ Ngài đến trong bối cảnh bài Tin Mừng này – cũng như miền Cana, là những miền đất của dân ngoại nằm trong lãnh thổ Do Thái. Tương tự như Chợ Lớn là vùng dân cư người Hoa, Phan Rang là vùng của người Chàm tại Việt Nam. Người Do Thái, đặc biệt người Pharisêu, coi dân ngoại bang hay ngoại giáo là những người tội lỗi, bị ô uế về mặt tâm linh, nên họ khinh bỉ ra mặt. Thái độ này tương tự như của người Bàlamôn ở Ấn Độ đối với tiện dân Paria: ngay cả bóng do mặt trời của những người này ngả trên người họ cũng khiến họ phải về nhà tẩy uế. 

Người phụ nữ đến với Đức Giêsu trong bài Tin Mừng là người Cana, là người ngoại bang và cũng là ngoại giáo. Vì thế, khi đến với Đức Giêsu là người Do Thái, bà đã mường tượng trước thái độ kém thân thiện có thể có của Đức Giêsu đối với bà. Do đó sau khi yêu cầu Ngài chữa bệnh cho con gái bà, bà không ngạc nhiên khi thấy Đức Giêsu im lặng không đáp, và các môn đệ Ngài tỏ thái độ không muốn bà làm phiền Ngài.

Thái độ của Đức Giêsu, nếu không hiểu, ta có thể kết luận rằng Ngài thiếu tình người vì Ngài đã tỏ ra không sẵn sàng giúp bà chỉ vì bà là dân ngoại: «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ítraen mà thôi» (Mt 15,24), thậm chí còn ví dân ngoại như bà là chó nữa: «Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con» (Mt 15,26). Thật ra, Ngài muốn thử thách niềm tin của bà vào Ngài, bằng cách thử làm cho bà nản lòng xem thái độ bà thế nào. Vì điều kiện để Ngài có thể chữa lành con gái của bà theo như ý bà xin là bà phải có đức tin mạnh mẽ. Nếu bà không có đức tin, Ngài không thể giúp bà được gì cả. 

Thật vậy, khi Ngài về quê hương của mình là Nadarét, Tin Mừng cho biết: «Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin» (Mt 13,58). Vì thế, việc thử thách đức tin của bà là chuyện cần thiết. Và Ngài đã thử bà bằng cách tỏ ra coi thường bà giống như những người Do Thái khác vẫn đối xử với bà. Nhưng bà đã vượt qua thử thách ấy, bà đã thắng được lòng tự ái dân tộc của bà và không nản lòng. Điều ấy chứng tỏ bà tin vào quyền năng và tình thương của Ngài. Vì thế, Ngài đã cho bà được toại nguyện. Ngài nói: «Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy» (Mt 15,28). Và con gái bà đã được khỏi ngay lúc ấy.



2.   Điều quan trọng là phải có đức tin

Để một phép lạ hay lời cầu xin được thành tựu, cần hai yếu tố: quyền năng Thiên Chúa và niềm tin của con người. Yếu tố đầu không còn là vấn đề, vì Thiên Chúa luôn sẵn sàng ban ơn cứu giúp con người vì tình thương vô biên của Ngài. Vì thế, yếu tố quyết định thành tựu hay không nằm ở phía con người: con người có đủ niềm tin hay không. Thật vậy, mỗi lần Ngài chữa bệnh thành công cho một người nào, Ngài không nói «Ta đã cứu chữa con» cho dù nói như vậy rất đúng, mà nói «Lòng tin của con đã cứu chữa con» (Mt 9,22; Lc 17,19). Thiếu đức tin về phía con người, dù Ngài có muốn cứu giúp, Ngài cũng không làm được, như trường hợp Ngài về Nadarét, Ngài đã không biểu lộ quyền năng của Ngài được vì dân chúng thiếu đức tin, cho dù dân ở đây đều là người cùng tôn giáo với Ngài (x. Mt 13,58). 

Khi con người có đức tin, cho dù là người ngoại giáo, Ngài vẫn thực hiện được những phép lạ. Đây là một điều đáng cho ta suy nghĩ về khả năng nhận được ơn cứu độ: người theo tôn giáo chân chính mà thiếu đức tin và tình yêu có thể không được ưu tiên nhận ơn cứu độ cho bằng người ngoại giáo nhưng có đức tin và tình yêu, biết sống theo tinh thần của Đức Giêsu.

Khi có đức tin mạnh mẽ, thì điều ta mong muốn sẽ thành tựu: «Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được» (Mt 17,20). Gương của Phêrô khi ông đi trên mặt nước (x. Mt 14,28-31) cho ta thấy: sở dĩ ông làm được chuyện ấy vì ông tin vững chắc rằng ông sẽ làm được với sự trợ giúp của Chúa. Nhưng đang đi trên mặt nước ngon lành, bỗng thấy gió thổi, ông liền nghi ngờ, thế là ông bị chìm xuống ngay lập tức trước mặt Đức Giêsu. Điều ấy cho thấy rõ ràng ông đi được trên nước là vì ông tin vững mạnh, và ông bị chìm xuống là vì lúc ấy ông thiếu đức tin. 

Như vậy có thể nói: không phải ông đi trên nước mà đi trên đức tin của mình. Đức tin của ta chính là mặt đất để ta bước đi trong đời sống tâm linh của mình.



3. Tại sao những ước nguyện của ta lại không thành tựu?

Sở dĩ ta ước nguyện, quyết tâm mà không thành tựu, chính vì ta thiếu niềm tin, tin không đủ mạnh. Vì đức tin của ta nhiều khi chỉ là thứ đức tin được chấp nhận một cách lý thuyết hay chỉ được tuyên xưng mạnh mẽ ngoài miệng thôi. Đó là thứ đức tin bằng lời nói chứ không phải đức tin bằng hành động. Nếu có đức tin thật sự và vững vàng, ta sẽ có một sức mạnh tinh thần rất đáng kể, và đời sống của ta chắc chắn sẽ thay đổi theo chiều hướng lạc quan. 

Về tinh thần, người mạnh mẽ và người yếu đuối khác nhau ở chỗ: người mạnh mẽ là người dám tự tin vào mình, tin mình có sức mạnh và khả năng thực hiện nhiều việc, còn người yếu đuối không dám tự tin vào mình. Sự tự tin vào bản thân mình của người Kitô hữu được xây dựng trên niềm tin vững chắc vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa.

Người có đức tin mạnh mẽ không chỉ tin bằng lời nói, mà tin bằng hành động thực tế. Họ tin rằng Thiên Chúa yêu thương họ vì bản chất Ngài là tình yêu (x.1Ga 4,8.16), Ngài không thể không yêu thương, không thể lãnh đạm với những nhu cầu khẩn thiết của họ. Và tình yêu của Ngài là thứ tình yêu đầy quyền năng, không sự gì là không làm được (x. Lc 1,37). Vì thế, khi họ kết hiệp với Ngài bằng đức tin và tình yêu, thì tình yêu của họ cũng sẽ trở thành một thứ tình yêu quyền năng, có khả năng làm được mọi việc. Họ sẽ có kinh nghiệm y như Phaolô: «Tôi có thể làm được mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13). 

Tuy nhiên, để có được kinh nghiệm về sức mạnh như Phaolô, điều kiện tiên quyết là họ phải từ bỏ chính mình, coi nhẹ «cái tôi» của mình, đồng thời ý thức sự hư vô và bất năng của mình đã. Ý thức sự bất năng của mình là nhận thức rằng nếu không nhờ vào quyền năng của Thiên Chúa, họ sẽ không làm được gì cả: «Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được» (Ga 15,5). Vì thế, không bao giờ họ hãnh diện hay lên mặt với ai khi mà tất cả những gì họ làm được đều nhờ vào quyền năng của Thiên Chúa. Nhờ đó, lời cầu nguyện của họ trước Thiên Chúa rất đắt giá vì tâm hồn họ tràn đầy tình yêu, không mang tính vị kỷ, và cũng tràn đầy tin tưởng vào tình yêu và quyền năng của Ngài. Họ sẽ được Thiên Chúa đối xử với họ như đã đối xử với Abraham: «Ta sẽ chúc phúc những ai chúc phúc ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc» (St 12,3).

Đương nhiên, không phải những người tin vững vàng vào Thiên Chúa thì sẽ không gặp khó khăn, thử thách, nghịch cảnh hay đau thương. Những thứ này luôn luôn là những dụng cụ Thiên Chúa dùng để thánh hóa những người Ngài yêu thương, kể cả Đức Giêsu, Con của Ngài. Họ càng vững mạnh trong đức tin thì họ càng được Thiên Chúa thử thách, để khi vượt thắng những thử thách ấy, đức tin của họ vào Ngài sẽ vững mạnh hơn, và họ được Ngài chúc phúc nhiều hơn. Bí quyết để họ vượt qua thử thách chính là đặt niềm tin vào Thiên Chúa nhiều hơn nữa. Nếu họ không vượt qua được thử thách vì chưa mạnh tin đủ thì đức tin của họ sẽ bị suy giảm. Mỗi lần được thử thách là một dịp để họ chiến thắng nếu họ dám tin vào Chúa, để sau đó đức tin họ vững mạnh hơn. 

Nhưng thử thách cũng sẽ là dịp để họ thất bại nếu họ không đặt đủ niềm tin vào Ngài, và đức tin của họ sẽ ngày càng bị suy yếu, sự tự tin nơi bản thân và sức mạnh tinh thần của họ cũng sẽ giảm đi. Vì thế, điều quan trọng là ta phải củng cố đức tin của mình mỗi ngày, và kiên trì với đức tin khi bị thử thách.



CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, người phụ nữ Canaan là người ngoại giáo, nhưng lại tin tưởng vững chắc vào tình yêu quyền năng của Đức Giêsu, nên bà đã đạt được ý nguyện của bà. Còn những người cùng quê hương, cùng tôn giáo với Ngài ở Nadarét lại không đạt được điều ấy. Xin cho con ý thức sự quan trọng của đức tin và tình yêu đối với Cha, với Đức Giêsu và với con người, trong đời sống tâm linh của con. Đừng để con quá cậy vào tôn giáo chân chính của mình mà quên đi điều cần thiết hơn rất nhiều là đức tin và tình yêu của con. Thiếu nó, đời sống tâm linh của con sẽ bị hụt hẫng, không phát triển được, và đời sống của con sẽ không có giá trị trước mặt Cha.


Share: